✨Bubastis

Bubastis

nhỏ|Vị trí của Bubastis trên bản đồ Bubastis (tiếng Ả Rập: Tell-Basta; tiếng Ai Cập: Per-Bast; tiếng Copt: Ⲡⲟⲩⲃⲁⲥϯ Poubasti; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούβαστις Boubastis hay Βούβαστος Boubastos) là một thành phố của Ai Cập cổ đại. Bubastis thường được xác định là Pi-Beseth trong kinh thánh. Đây cũng là thủ phủ của nome thứ 18, Am-Khent xưa kia, nằm ở Hạ Ai Cập; và là trung tâm thờ phụng của nữ thần mèo Bastet, vì thế mà nơi đây có rất nhiều xác ướp của loài mèo. Bubastis hiện nay là vùng ngoại ô của thành phố Zagazig thuộc tỉnh Sharqia.

Tên của Bubastis trong tiếng Ai Cập được viết là Pr-Bȝśt.t, được phiên âm là Per-Bast, có nghĩa là "Nhà của thần Bast".

Lịch sử

trái|nhỏ|245x245px|Tượng nữ thần [[Hathor tại đền thờ Bubastis]] Bubastis là thủ phủ của nome Am-Khent, nằm phía tây nam của Tanis, phía đông của nhánh Pelusiac thuộc sông Nin. Nó trở thành nơi đặt cung điện hoàng gia sau khi Shoshenq I, người sáng lập Vương triều thứ 22, lên ngôi vua vào năm 943 TCN. Bubastis giữ vị thế cao nhất trong trong suốt thời kỳ Vương triều thứ 22 và 23. Nó đã trở nên suy tàn sau cuộc tấn công của vua Ba Tư Cambyses II năm 525 TCN, báo hiệu sự kết thúc của Vương triều thứ 26 và bắt đầu thời kỳ đế chế Achaemenes.

Trong thời gian cai trị của các vua thuộc Vương triều thứ 22, Bubastis là nơi được quan tâm nhất trong vùng châu thổ sông Nin. Phía nam Bubastis là những mảnh đất mà Psamtik I thưởng cho những lính đánh thuê đến từ vùng Ionian và Carian. Ở phía bắc của thành phố là nơi mà vua Necho II đã dự định (nhưng chưa hoàn thành) sẽ đào một con kênh nối giữa sông Nin với Biển Đỏ. Sau khi Bubastis bị người Ba Tư chiếm, những bức tường thành của nó đã bị phá bỏ. Từ thời kỳ này, thành phố bắt đầu suy yếu và mất đi vị thế ban đầu của nó.

Herodotus đã mô tả về Bubastis sau cuộc xâm lược của người Ba Tư như sau: "Những ngôi đền trông thật rộng lớn và tốn kém ở Bubastis. Ngoại trừ lối vào, nó được bao quanh bởi nước: hai nhánh kênh đào từ con sông chạy thẳng vào cổng đền, nhưng không hòa vào nhau mà chảy một cách độc lập. Mỗi con kênh rộng hơn một trăm feet, 2 bên bờ là những hàng cây. Cổng đền cao 60 feet và được trang trí bằng các bức tượng cao 9 feet hết sức tinh xảo. Ngôi đền nằm giữa thành phố và nhìn ra mọi phía. Ngôi đền đã có từ thời thành phố này còn phát triển, và vẫn còn ở ngay vị trí ban đầu khi thành phố đã lụi tàn. Ngôi đền có một bức tường bao khá tròn, được trang trí bởi các phù điêu. Bên trong tòa nhà lớn được bao phủ bởi những lùm cây, là một hình vẽ của nữ thần Bast. Ngôi đền này hình vuông, mỗi cạnh rộng 1 stadium (đơn vị đo cổ đại, gần bằng 185 mét). Con đường dẫn vào đền được lát đá, đi về phía đông dẫn tới một khu chợ. Con đường rộng hơn 400 feet và trồng những hàng cây cao. Nó dẫn đến ngôi đền của Hermes".

Tôn giáo

nhỏ|233x233px|Phù điêu của [[Amenhotep II]] Bubastis là trung tâm sùng bái của nữ thần Bastet, được đồng nhất với thần Hy Lạp Artemis. Mèo là loài linh vật của Bast và thường xuyên đi cùng với thần sáng tạo Ptah trên các bức điêu khắc. Các ngôi mộ tại Bubastis là nơi chôn cất tập trung những xác ướp của loài mèo.

Tại đây có một ngôi đền lớn dành cho nữ thần và là nơi tổ chức lễ kỷ niệm hằng năm cho bà. Theo Herodotus, lễ hội tại Bubastis rất thú vị và hoành tráng: "Những con thuyền chở đầy người trôi chầm chậm trên sông Nin. Những người đàn ông thổi sáo trong khi những người phụ nữ chơi trống tay và chũm chọe. Mọi người vỗ tay và nhảy múa theo nhạc, và thể hiện những cử chỉ vui mừng khác. Khi đến Bubastis, họ đã tổ chức một bữa tiệc tuyệt vời và đầy long trọng: rượu nho được uống trong những buổi tiệc vào ngày này nhiều hơn cả các ngày khác trong năm. Đó là cách mà người dân tổ chức lễ hội này, và người ta nói rằng, có đến 700.000 người hành hương vào lễ kỷ niệm của Bast".

Khai quật

Ngôi mộ của tể tướng Iuty thời kỳ Tân vương quốc được phát hiện vào tháng 12 năm 1964 trong nghĩa trang của giới quý tộc tại Bubastis bởi Shafik Farid. Tháng 3 năm 2004, bản sao của Chỉ dụ Canopus được phát hiện tại đây (xem Tanis).

👁️ 5 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Vị trí của Bubastis trên bản đồ **Bubastis** (tiếng Ả Rập: _Tell-Basta_; tiếng Ai Cập: _Per-Bast_; tiếng Copt: Ⲡⲟⲩⲃⲁⲥϯ _Poubasti_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούβαστις _Boubastis_ hay Βούβαστος _Boubastos_) là một thành phố của
**_Giria bubastis_** là một loài bướm đêm trong họ Noctuidae.
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Hotepsekhemwy** (tiếng Hy Lạp: **Boethos**) là vị vua đầu tiên của Vương triều thứ 2 của Ai Cập. Độ dài vương triều của ông không được xác định rõ: _Danh sách Vua Turin_ cho là
**Usermaatre Osorkon IV** là pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Thời gian trị vì của ông gắn liền với những biến động đầy hỗn loạn, khi
Thủ đô hiện tại của **Ai Cập** là Cairo. Tuy nhiên, trong lịch sử, thủ đô của Ai Cập đã nhiều lần thay đổi. ## Danh sách thủ đô Ai Cập cổ đại Đây là
**Usermaatre Setepenamun Osorkon II** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Niên đại trị vì của ông kéo dài hơn 30 năm (872 – 837
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
**Merneferre Ay** (còn viết là **Aya** hoặc **Eje**) là một pharaoh của Ai Cập cổ đại thuộc giai đoạn giữa vương triều thứ 13. Ông là vị pharaoh cai trị lâu nhất của vương triều
**Khafra** (còn được gọi là **Khafre**, **Khefren** và **Chephren**) là một vị vua Ai Cập cổ đại (pharaon) của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là con trai của vua
**Khufu** ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là **Cheops** hay **Kheops**; tên đầy đủ là **Khnum Khufu** ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư
thumb|Con dao găm với tên Nebkhepeshre Apepi. **Apepi** (cũng là **Ipepi**; Tiếng Ai Cập **') hoặc **Apophis** (; tên trị vì **Neb-khepesh-Re**, **A-qenen-Re** và **A-user-Re''') là một vị vua của Hạ Ai Cập dưới thời
**Anat-her** (cũng là **'Anat-Har**) có thể là vị vua đầu tiên của vương triều thứ 16, ông đã trị vì một vài vùng đất của Hạ Ai Cập trong thời kỳ Chuyển tiếp thứ Hai
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
**Iuput II** (còn được đánh vần là **Auput II**) là một vị vua của Leontopolis, ở khu vực châu thổ sông Nile của Hạ Ai Cập, ông đã trị vì vào thế kỷ thứ 8
**Trung Vương quốc Ai Cập** là một giai đoạn trong lịch sử của Ai Cập cổ đại, tồn tại trong thời gian giữa khoảng năm 2050 trước Công nguyên, và 1700 trước Công nguyên, trải
**Vương triều thứ Hai Mươi Hai của Ai Cập cổ đại** (**Vương triều thứ 22**) cũng được biết đến với tên gọi **Vương triều Bubastite**, kể từ khi các pharaon cai trị thành phố Bubastis.
**Tanis** (tiếng Ả Rập: صان الحجر _Ṣān al-Ḥagar_; tiếng Ai Cập: _/ˈcʼuʕnat/_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Τάνις; tiếng Copt: ϫⲁⲛⲓ / ϫⲁⲁⲛⲉ) là một thành phố nằm ở đông bắc châu thổ sông Nin,
**Heqakheperre Shoshenq II** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua duy nhất của vương triều này mà lăng mộ không bị
**Hedjkheperre Setepenre** **Takelot I** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Theo sử gia người Hy Lạp Manetho, triều đại của ông kéo dài khoảng
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Karomama._ **Karomama I**, còn được đánh thứ tự là **Karomama B**, là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử