Heqakheperre Shoshenq II là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua duy nhất của vương triều này mà lăng mộ không bị đột nhập bởi những tên trộm. Nơi an nghỉ cuối cùng của Shoshenq được tìm lấy là căn phòng ngoài của ngôi mộ NRT III (nơi chôn cất của Psusennes I) tại Tanis bởi Pierre Montet vào năm 1939.
Montet đã mở nắp quan tài của Shoshenq II vào ngày 20/3/1939, ngay trước sự chứng kiến của vua Farouk. Montet cũng đã tìm ra nơi chôn cất vẫn còn nguyên vẹn của 2 vị vua cùng thời với Shoshenq II, Psusennes I và Amenemope một năm sau đó (1940). Tên ngai của ông, Heqakheperre Setepenre, "Hiện thân của Ra trong sự cai trị, được Ra chọn".
Shoshenq II được biết đến rằng có 2 bà vợ, trong đó Nesitanebetashru xuất hiện trên một bức tượng thần lùn Bes của nhà vua.
Kho báu
Mộ của Shoshenq II chứa rất nhiều vòng tay và tấm đeo ngực được khảm đá quý, cùng với đó là một cỗ quan được làm hoàn toàn từ bạc, trông rất tinh xảo. Thay vì phải mang khuôn mặt của chủ nhân, cỗ quan tài bạc này lại được chạm khắc hình đầu của một con chim ưng. Bên cạnh đó còn có 4 quan tài bằng bạc nhỏ hơn đóng vai trò như những chiếc bình canopic trước đây. Bên trong cỗ quan tài là một xác ướp mang một chiếc mặt nạ bằng vàng. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy nhiều vật dụng khác vẫn trong tình trạng được bảo quản tốt.
Danh tính của Shoshenq II
trái|nhỏ|177x177px|Tấm đeo ngực của Shoshenq II
Có khả năng Shoshenq II là con của vua Shoshenq I. Hai cái vòng tay và một tấm đeo ngực từ mộ của Shoshenq II có nhắc đến Shoshenq I, "Đại thủ lĩnh của Meshwesh" - danh hiệu được sử dụng dưới Psusennes II trước khi Shoshenq I lên làm vua. Những hiện vật này có thể nhắc đến mối quan hệ cha con giữa hai người hoặc chỉ đơn giản là những kỷ vật được truyền lại cho một người kế vị.
Một số học giả ngày nay cho rằng Shoshenq II thực sự là một người con trai nhỏ của Shoshenq I, dựa vào những hiện vật đã đề cập ở trên. Một cuộc giám định pháp y trên xác ướp của Shoshenq II được thực hiện bởi tiến sĩ Douglas Derry cho thấy nhà vua đã qua đời ở tầm độ tuổi 50. Vì vậy, Shoshenq II có thể sống được qua 35 năm trị vì của vua Osorkon I và đã cai trị Ai Cập trong vài năm sau đó, trước khi Takelot I nắm quyền. Sử gia Hy Lạp Manetho cho rằng, có tới 3 vua cai trị xen giữa 2 cha con Osorkon I và Takelot I. 3 vị vua này rất khó mà xác định được là ai bởi vì sự thiếu hụt các bằng chứng cộng thêm sự cai trị ngắn ngủi của họ. Ngoài Shoshenq II thì có lẽ Tutkheperre Shoshenq là một trong hai người còn lại. Tutkheperre Shoshenq được chứng thực ở một đền thờ tại Bubastis, nơi mà Osorkon I và Osorkon II có những công trình xây dựng tại đó.
Một bằng chứng cho thấy Shoshenq II là vua tiền nhiệm của Harsiese A dựa vào nắp quan tài bằng granite mang hình đầu chim ưng của Harsiese. Phong cách này khá giống với nắp quan tài bạc của Shoshenq. Harsiese A là vua đầu tiên của Vương triều thứ 23, cai trị song song với thời của Takelot I và Osorkon II. Một điều nữa chứng tỏ Shoshenq II cai trị trước Harsiese A là vì Harsiese là con của Đại tư tế Amun Shoshenq C tại Thebes, và vì thế Harsiese là cháu nội của Osorkon I.
Giả thuyết thứ hai cho rằng, những hiện vật mang tên Shoshenq I ở trên chỉ là những kỷ vật được trao lại cho người kế vị mới, không phải là bằng chứng về mối quan hệ nào giữa Shoshenq I và II. Cách giải thích này được đưa ra bởi Jürgen von Beckerath trong cuốn sách mà ông đã viết vào năm 1997, Chronologie des Pharaonischen Ägypten, người cũng tin rằng Shoshenq II là anh của Takelot I. Điều nàu cũng được Norbert Dautzenberg tán thành. Tuy nhiên, Beckerath lại đặt Shoshenq II giữa Takelot I và Osorkon II.
Kenneth Kitchen thì nghĩ rằng, Shoshenq II chính là Đại tư tế Amun Shoshenq C, con trai của Osorkon I và hoàng hậu Maatkare B, người đã đồng cai trị với vua cha nhưng lại mất sớm. Kitchen dựa vào những mảnh băng quấn xác của Nakhtefmut, trên đó có đánh dấu năm trị vì thứ 3 và 33. Năm thứ 33 chắc chắn là của Osorkon I vì xác ướp của Nakhtefmut có đeo một chiếc nhẫn khắc tên của Osorkon. Vì thế năm thứ 33 của Osorkon sẽ tương đương "năm thứ 3" của Shoshenq II, sau này là Shoshenq C.
Sự đồng cai trị này hoàn toàn không có cơ sở bởi vì 2 năm trị vì này không được đánh dấu trên cùng một mảnh băng, vì thế chúng có thể không được quấn vào cùng 1 thời điểm. Điều này xảy ra đối với xác ướp của Khonsmaakheru (hiện đang ở Đức), trong đó các băng vải được tìm thấy đánh dấu tới 3 năm: 11, 12, 23 dưới triều vua Osorkon I và xác ướp của Đại tư tế Djedptahiufankh cũng mang nhiều băng vải đánh dấu các năm thứ 5, 10, và 11 của Shoshenq I. Do đó, năm thứ 3 trên xác ướp Khonsmaakheru cũng là của Osorkon I.
Không có bằng chứng nào cho thấy Shoshenq C tự nhận mình là một người hoàng gia, theo Jacquet-Gordon. Điều này cho thấy rằng Shoshenq C không phải là vua Shoshenq II.
Triều đại độc lập
nhỏ|Sơ đồ ngôi mộ NRT III cho thấy nơi mà Shoshenq II được chôn cấtTất cả những hiện vật trong mộ của Shoshenq II đều không mang tên của Osorkon I. Điều này không thể xảy ra nếu Shoshenq II thực sự là Shoshenq C, tức con trai của Osorkon I. Điều này cho thấy Heqakheperre Shoshenq II không phải là con trai của Osorkon I mà là con trai của người khác, có lẽ Shoshenq I. Karl Jansen-Winkeln đã viết trong sách của mình như sau: "Những cá nhân được chôn cất trong các ngôi mộ hoàng gia (tại Tanis) thường khắc tên cha mẹ của họ lên những kỷ vật, vì vậy vị vua này (chỉ Shoshenq II) có thể là con của Shoshenq I".
Vì tất cả những vật phẩm được tùy táng theo Shoshenq II đều mang duy nhất một cái tên hoàng gia Heqakheperre, ông thực sự có một triều đại riêng cho mình chứ không phải chỉ là một người đồng cai trị. Beckerath dựa vào lập luận này và đã gán cho Shoshenq II một triều đại 2 năm. Thomas Schneider cũng đã hoàn toàn đồng ý với điều này và xếp cả Shoshenq II và Tutkheperre Shoshenq vào giữa Takelot I và Osorkon II. Việc sử dụng bạc nguyên chất để chế tác ra cỗ quan tài Shoshenq II thể hiện uy quyền mạnh mẽ của ông bởi vì "bạc là một nguyên liệu rất hiếm ở Ai Cập, quý hơn cả vàng".
An táng
Cuộc khám nghiệm thi hài của Shoshenq II bởi tiến sĩ Derry cho thấy rằng nhà vua đã chết vì nhiễm trùng nặng từ vết thương ở đầu. Shoshenq II đã được cải táng vào căn phòng ngoài của ngôi mộ NRT III (nơi chôn cất của Psusennes I). Ngôi mộ đầu tiên của ông (không rõ) đã bị ngấm nước bởi vì người ta tìm thấy dấu vết của rêu trên cỗ quan tài và trên phần chân của xác ướp.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Heqakheperre Shoshenq II** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông là vị vua duy nhất của vương triều này mà lăng mộ không bị
**Shoshenq** (cũng được viết là **Sheshonq**, **Sheshonk**, **Shoshenk**) là tên được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của
**Titkheperure / Tyetkheperre Psusennes II** hoặc **Hor-Pasebakhaenniut II**, là pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 21 của trong lịch sử Ai Cập cổ đại, cai trị 24 năm (khoảng 967 – 943 TCN). Psusennes
**Shoshenq D** là một vương tử sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông đảm nhận chức vụ Đại tư tế của Ptah tại Memphis dưới thời
**Usermaatre Setepenamun Osorkon II** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Niên đại trị vì của ông kéo dài hơn 30 năm (872 – 837
nhỏ|Ngôi mộ NRT V **Usermaatre Setepenre Shoshenq III** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Niên đại trị vì của ông được cho là 39
**Hedjkheperre Setepenre Shoshenq IV** là một pharaon cai trị khá mờ nhạt thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông được cho là người kế vị trực tiếp của vua
**Aakheperre Shoshenq V** là pharaon áp chót của Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Triều đại của ông khá dài, bắt đầu từ khoảng năm 767 đến 730 TCN, tức
**Pedubast II** là một pharaon cai trị thuộc Vương triều thứ 22 hoặc thứ 23 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Chứng thực Không được đề cập đến trong bất kỳ danh sách
**Hedjkheperre Setepenre Takelot II Si-Ese** là một pharaon thuộc Vương triều thứ 23 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Takelot II lên ngôi trong thời kỳ Ai Cập bị chia cắt và chỉ nắm
**Osorkon I** là vị vua cai trị thứ nhì thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại, có niên đại kéo dài trên 30 năm (922 – 887 TCN). Ông đã
**Tanis** (tiếng Ả Rập: صان الحجر _Ṣān al-Ḥagar_; tiếng Ai Cập: _/ˈcʼuʕnat/_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Τάνις; tiếng Copt: ϫⲁⲛⲓ / ϫⲁⲁⲛⲉ) là một thành phố nằm ở đông bắc châu thổ sông Nin,
**Horus** là vị thần cổ đại quan trọng nhất trong Thần thoại Ai Cập. Ông được tôn thờ từ ít nhất cuối thời tiền sử Ai Cập cho đến thời Ai Cập thuộc Hy Lạp
**Wendjebauendjed** là một tướng lĩnh và là một đại tư tế dưới triều vua Psusennes I thuộc Vương triều thứ 21. Ông chủ yếu được biết đến qua ngôi mộ NRT III tại Tanis. ##
**Sokar** (hay **Seker**) là một vị thần chết trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Đây cũng là vị thần được sùng bái bậc nhất tại các nghĩa trang ở Memphis. ## Ý nghĩa tên
**Takelot B** là một Đại tư tế của Ptah tại Memphis sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông phục vụ dưới thời trị vì của pharaon
**Padiese** (còn được viết là **Padieset**, **Pediese**, **Padiiset**), là một Đại tư tế của Ptah tại Memphis sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông phục vụ
**Usermaatre Setepenre Pami** là một pharaon cai trị 7 năm thuộc Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Mặc dù không tìm thấy bất cứ mối quan hệ nào giữa ông
**Pedubastis I** hay **Pedubast I** là một pharaon thuộc Vương triều thứ 23 cai trị Thebes trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Dựa trên những bằng chứng tìm được, các nhà nghiên cứu cho
**Harsiese** (còn được viết là **Horsiese** hoặc **Harsiesis**, và nhiều biến thể khác), là một tên gọi của người Ai Cập cổ đại, mang ý nghĩa là "_Horus, con trai của Isis_". Tên này có
Tấm bia mô tả Osorkon khi còn là tư tế. Trên đó có khắc tên của vua [[Takelot II, hoàng hậu Karomama II và Đại tư tế Nimlot C (ông của Osorkon)]] **Usermaatre Setepenamun Osorkon
**Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập** diễn ra ngay sau khi pharaon Ramesses XI qua đời, chấm dứt thời kỳ Tân vương quốc, kéo dài mãi đến khoảng năm 664 TCN thì
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Nimlot._ **Nimlot A** là một _Đại thủ lĩnh của người Meshwesh_ sống vào giai đoạn cuối của thời kỳ Vương triều thứ 21 trong lịch sử
thumb|[[Tượng Nhân sư lớn và Quần thể kim tự tháp Giza là những biểu tượng nổi bật nhất của nền văn minh Ai Cập cổ đại]] **Ai Cập cổ đại** là một nền văn minh
thumb|Xác ướp của Djedptahiufankh, từ DB320. **Djedptahiufankh** đã giữ chức vụ Nhà Tiên tri thứ Hai của Amun và Nhà tiên tri thứ ba của Amun dưới triều đại của Shoshenq I thuộc vương triều
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Smendes và Smendes II._ **Smendes III** (Hy Lạp hóa từ tên Ai Cập là **Nesibanebdjed III**) là một Đại tư tế của Amun sống vào thời
**Quần thể đền Karnak**, thường gọi tắt là **đền Karnak**, là một di tích nổi tiếng nằm ở thành phố Thebes, kinh đô cũ của Ai Cập. Di tích này gồm nhiều tàn tích của
**Hedjkheperre Setepenamun Harsiese A** là một Đại tư tế của Amun, sau đó trở thành Pharaon trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông đã cai trị Thượng Ai Cập trong khoảng năm 874 –
**Aakheperre Setepenre Osorkon Già** là vị vua thứ năm thuộc Vương triều thứ hai mươi mốt của Ai Cập và là vị pharaon gốc Libya đầu tiên cai trị Ai Cập. Ông cũng được biết
:_Đừng nhầm lẫn với Maatkare Mutemhat, một công nương sống vào thời kỳ Vương triều thứ 21._ **Maatkare B** là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều
**Usermaatre Osorkon IV** là pharaon cuối cùng của Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Thời gian trị vì của ông gắn liền với những biến động đầy hỗn loạn, khi
**Takelot** (cũng được viết là **Takeloth**) là một tên gọi được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của
**Tấm bia của Pasenhor**, còn gọi là **Tấm bia của Harpeson** trong những tài liệu trước đây, là một cổ vật có niên đại từ năm trị vì thứ 37 của pharaon Shoshenq V (khoảng
**Nimlot** (cũng được viết là **Namlot**) là một tên gọi được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Hedjkheperre Setepenre Smendes** là vị vua sáng lập Vương triều thứ 21 của Ai Cập và đã lên ngôi sau khi an táng vua Ramesses XI ở Hạ Ai Cập - vùng lãnh thổ mà
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Karomama._ **Karomama I**, còn được đánh thứ tự là **Karomama B**, là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử
**Karomama** (còn được viết là **Karamama**, **Karomat**, **Karoma**, **Karoama**,...) là tên được đặt cho một số người phụ nữ Ai Cập cổ đại trong gia đình vương tộc thời kỳ Vương triều thứ 22. *
**Hornakht** (còn được viết là **Hornakhte** hoặc **Harnakht**), là một vương tử sống vào thời kỳ Vương triều thứ 22 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Gia đình vương tộc Hornakht là con
**Ramesses VI Nebmaatre-Meryamun** (đôi khi được viết là **Ramses** hoặc **Rameses**, còn được biết đến với tên gọi khi là hoàng tử của ông là **Amenherkhepshef C**) là vị vua thứ Năm thuộc Vương triều
nhỏ|Vị trí của Bubastis trên bản đồ **Bubastis** (tiếng Ả Rập: _Tell-Basta_; tiếng Ai Cập: _Per-Bast_; tiếng Copt: Ⲡⲟⲩⲃⲁⲥϯ _Poubasti_; tiếng Hy Lạp cổ đại: Βούβαστις _Boubastis_ hay Βούβαστος _Boubastos_) là một thành phố của
**Thập niên 820 TCN** hay **thập kỷ 820 TCN** chỉ đến những năm từ 820 TCN đến 829 TCN. ## Sự kiện 825 TCN - Takelot II , vua của Ai Cập , qua đời.
nhỏ|272x272px|Khung tên của vua Siamun trên một rầm cửa tại Memphis **Neterkheperre** hay **Netjerkheperre-setepenamun** **Siamun** là vị pharaon thứ sáu của Vương triều thứ 21 của Ai Cập cổ đại. Siamun đã xây dựng một
**Thập niên 940 TCN** hay **thập kỷ 940 TCN** chỉ đến những năm từ 940 TCN đến 949 TCN. ## Sự kiện 945 TCN - Ai Cập : Psusennes III qua đời, vị vua cuối
**Thập niên 830 TCN** hay **thập kỷ 830 TCN** chỉ đến những năm từ 830 TCN đến 839 TCN. ## Sự kiện 836 TCN - Shalmaneser III của Assyria dẫn đầu một cuộc thám hiểm
**Ankhefensekhmet** _(ˁnḫ=f n sḫm.t;_ "Ngài sống vì Sekhmet") là một Tư tế Tối cao của Ptah dưới thời vương triều thứ 21. Ông có thể đã phụng sự dưới triều đại của Psusennes II và
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Nimlot._ **Nimlot B**, còn được gọi là **Nemareth**, là một vương tử, tướng quân và tổng đốc sống vào đầu thời kỳ Vương triều thứ 22
**Usermaatre** **Amenemope** (thế kỷ 11 — 992 TCN) là một vị vua của Vương triều thứ 21 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Amenemope được nghĩ là một người con trai của Pharaon Psusennes
**Osorkon** là một tên gọi được đặt cho nam giới trong văn hóa Ai Cập cổ đại. Tên này khá phổ biến trong Thời kỳ Chuyển tiếp thứ Ba của Ai Cập. Dưới đây là