✨Khufu

Khufu

Khufu ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là Cheops hay Kheops; tên đầy đủ là Khnum Khufu ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư thuộc thời kỳ Cổ vương quốc của Ai Cập. Ông là vị vua thứ hai của vương triều thứ Tư và đã kế vị người cha là vua Sneferu. Khufu thường được coi là chủ nhân của Đại Kim tự tháp ở Giza, một trong bảy kỳ quan thế giới cổ đại, nhưng nhiều khía cạnh khác liên quan đến triều đại của ông lại được ghi chép khá nghèo nàn.

Một điều thú vị nữa đó là vị pharaon này đã sử dụng một cách chính thức hai phiên bản tên gọi thủa nhỏ của ông là Khnum-khufKhufu. Cách gọi đầu tiên (đầy đủ) rõ ràng thể hiện đức tin tôn giáo của Khufu đối với Khnum, còn cách gọi tên thứ hai (ngắn hơn) thì lại không. Không rõ tại sao nhà vua lại sử dụng cách gọi tên ngắn gọn như vậy. Có thể dường như tên gọi ngắn gọn này không mang ý nghĩa là phải kết nối với bất kỳ vị thần nào cả. Một tên gọi khác hiếm gặp nữa của Khufu, được Josephus sử dụng, là Sofe ( ; ).. Các nhà sử học Ả rập gọi ông là Saurid hay Salhuk trong những câu chuyện thần bí về Khufu và các kim tự tháp Giza.

Gia đình

Dòng dõi của Khufu

thumb|Chân dung của Sneferu, người cha ruột hoặc cha dượng của Khufu Hiện nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa thể chắc chắn rằng liệu Khufu có thực sự là con ruột của Sneferu hay không. Phần lớn các nhà Ai Cập học đều tin Sneferu chính là cha ruột của Khufu, nhưng là do các sử nhà sử học thuộc về thời kỳ sau này thường ghi chép lại rằng chỉ có người con trai cả hoặc một người con cháu được lựa chọn mới được thừa hưởng ngai vàng.. Thay vào đó, Hetepheres chỉ từng mang tước hiệu Sat-netjer-khetef (nguyên văn: "người con gái từ thân thể thần thánh của Ngài", hay là "người con gái của đức vua"), một tước hiệu lần đầu tiên được đề cập đến

Gia phả

Danh sách sau đây liệt kê các thành viên hoàng tộc mà có thể có mối liên hệ với Khufu một cách chắc chắn.
Cha mẹ: Nefertiabet: Được biết đến với tấm bia đá tuyệt đẹp của bà. Hetepheres II: Vợ của hoàng tử Kawab, sau này còn kết hôn với pharaon Djedefra. Meresankh II. Meritites II: Kết hôn với Akhethotep. *Khamerernebty I: Vợ của vua Khafra và là mẹ của vua Menkaura. Cháu nội:. Nguồn sử liệu thứ hai có thể được tìm thấy trong các khoang trống nằm ở phía trên phòng chôn cất chính của kim tự tháp Khufu. Một trong số những dòng chữ khắc này đề cập tới một toán thợ có tên gọi là "những người bạn của Khufu" cùng với ghi chú "vào năm của lần kiểm kê gia súc thứ 17", nhưng hiện vẫn chưa rõ liệu rằng số năm được nhắc đến ở đây cho thấy việc kiểm kê gia súc diễn ra hai năm một lần, hay là con số này đã được ghi lại theo đúng nguyên văn. Tuy nhiên, những bằng chứng gần đây đến từ Wadi al-Jarf giúp phát lộ ra một manh mối thứ ba về độ dài triều đại của Khufu: một vài mảnh giấy cói có chứa các bản báo cáo viết tay đến từ một bến cảng của hoàng gia tại Wadi al-Jarf ngày nay. Những ghi chép này mô tả sự trở về của hạm đội hoàng gia với những kim loại quý hiếm cùng ngọc lam trong "năm sau lần kiểm kê gia súc thứ 13 dưới triều vua Hor-Medjedw". Do đó, niên đại của Khufu được biết đến rõ nhất và được lưu giữ tốt nhất đó là "Năm sau lần kiểm kê gia súc thứ 13"

Sự kiện chính trị

Chỉ có một vài gợi ý về các sự kiện diễn ra dưới triều đại của Khufu ở bên trong và bên ngoài Ai Cập. Ở Ai Cập, tên của Khufu xuất hiện trong các bản khắc đá trên các tòa nhà và các bức tượng. Ngoài ra tên của Khufu còn xuất hiện trong các bản khắc đá ở Elkab và Elephantine và tại các mỏ đá địa phương ở Hatnub và Wadi Hammamat. Tại Saqqara, hai bức tượng bằng đất nung của nữ thần Bastet đã được tìm thấy và ở dưới đế của chúng chạm khắc tên horus của Khufu. Chúng đã có mặt tại Saqqara vào thời Trung vương quốc, nhưng có thể đã được tạo ra dưới triều đại của Khufu.

Wadi Maghareh

thumb|Tranh vẽ phù điêu của Khufu từ [[Wadi Maghareh.]] Tại Wadi Maghareh ở Sinai, một bản khắc đá đã khắc họa hình ảnh Khufu đang đội vương miện kép. Dưới triều đại của mình, Khufu đã tiến hành một vài cuộc viễn chinh nhằm tìm kiếm các mỏ ngọc lam và đồng. Giống như các vị vua khác như Sekhemkhet, Sneferu và Sahure, vốn cũng được miêu tả trong những bức phù điêu oai vệ tại đó, ông cũng tìm kiếm hai nguồn nguyên liệu quý giá này. Ngoài ra, Khufu cũng đã tiến hành giao thương với Byblos. Ông đã phái một vài đoàn thám hiểm đến Byblos để nhằm trao đổi những công cụ và vũ khí bằng đồng lấy loại gỗ tuyết tùng quý giá. Loại gỗ này là nguồn nguyên liệu thiết yếu dùng để đóng những chiếc thuyền tang lễ lớn và thực sự thì những chiếc thuyền được phát hiện tại Đại Kim tự tháp của ông đã được làm từ chúng.

Wadi al-Jarf

Gần đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những bằng chứng mới liên quan đến các sự kiện diễn ra dưới triều đại của Khufu tại khu vực hải cảng cổ Wadi al-Jarf nằm trên bờ biển Đỏ ở khu vực miền đông Ai Cập. Những vết tích đầu tiên của bến cảng này đã được John Gardner Wilkinson và James Burton khai quật vào năm 1823, nhưng di tích này nhanh chóng bị bỏ qua và chìm dần vào sự quên lãng. Năm 1954, các học giả người Pháp như François Bissey và René Chabot-Morisseau đã tiến hành khai quật lại bến cảng này, nhưng cuộc khai quật của họ cũng đã sớm phải dừng lại. Nguyên nhân là do là cuộc khủng hoảng kênh đào Suez xảy ra. Vào tháng 6 năm 2011, một nhóm các nhà khảo cổ dưới sự lãnh đạo của hai nhà Ai Cập học người Pháp là Pierre Tallet và Gregory Marouard đã tái khởi động lại quá trình khai quật tại địa điểm này. Trong số những hiện vật được khai quật tại đây, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy hàng trăm đoạn giấy cói

Trong số đó có mười cuộn giấy vẫn còn đang trong tình trạng nguyên vẹn. Phần lớn các ghi chép này có niên đại vào năm thứ 27 dưới triều đại của Khufu và chúng ghi lại cách thức mà triều đình đã sử dụng để vận chuyển lương thực cùng vật tư cho các thủy thủ và công nhân bến cảng. Giá trị của những tài liệu quan trọng này còn được củng cố thông qua cách diễn đạt điển hình của thời kỳ Cổ vương quốc, cùng với việc các bức thư này được gửi tới cho chính nhà vua và Khufu được gọi bằng tên Horus của ông. Đây là một cách xưng hô điển hình đối với một vị vua khi ông ta đang còn sống; Khi nhà vua qua đời, ông ta được gọi bằng tên đồ hình hoặc bằng tên gọi lúc sinh ra của ông ta. Trong số những cuộn giấy trên có một cuộn giấy nhận được sự quan tâm đặc biệt: đó là nhật ký của Mererer, một viên quan tham gia vào việc xây dựng Đại Kim tự tháp. Thông qua cuốn nhật ký, các nhà nghiên cứu đã có thể tái dựng lại ba tháng của cuộc đời ông ta và có được cái nhìn sâu sắc hơn về cuộc sống thường nhật của người dân dưới vương triều thứ tư. Một bản khắc khác, được tìm thấy trên những bức tường đá vôi của bến cảng, đã đề cập đến tên của viên quan đứng đầu cơ quan ký lục của hoàng gia mà chịu trách nhiệm kiểm soát việc trao đổi hàng hóa:Idu Ngày nay, bức tượng nhỏ này đã được khôi phục và trưng bày tại bảo tàng Ai Cập ở Cairo trong phòng 32 với số thứ tự là JE 36143.

thumb|Đầu tượng bằng ngà voi của Khufu trưng bàu tại [[Bảo tàng Altes]] Ban đầu, các nhà nghiên cứu thường cho rằng bức tượng nhỏ này là bức tượng duy nhất của vua Khufu còn nguyên vẹn đến ngày nay. Tuy nhiên, điều này hiện nay không còn đúng nữa. Các cuộc khai quật diễn ra ở Saqqara vào năm 2001 và 2003 đã khám phá ra một cặp tượng bằng đất nung miêu tả một nữ thần sư tử (có thể là thần Bastet hay Sakhmet). Trên đôi chân của nữ thần, hai bức tượng trong dáng vẻ trẻ con của hai vị vua vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Trong khi bức tượng bên phải có thể được xác định là vua Khufu nhờ vào tên Horus của ông, bức tượng còn lại được xác định là thuộc về vua Pepy I của vương triều thứ 6, nhờ vào tên gọi thủa nhỏ của ông ta. Rõ ràng là bức tượng nhỏ của vua Pepy chỉ được thêm vào sau này, bởi vì chúng nằm tách riêng và nằm cách vị thần một khoảng. Cả hai nhóm tượng này đều được tạc theo cách thức tương tự nhau (cả hai đều có cùng kích cỡ và tỷ lệ), sự khác biệt duy nhất đó là một nữ thần sư tử nắm giữ một cây quyền trượng. Các nhà khảo cổ học còn nhận thấy rằng những pho tượng này đã được phục dựng lại vào thời kỳ Trung vương quốc, sau khi chúng bị vỡ. Tuy nhiên, dường như nguyên nhân dẫn đến việc phục dựng lại chúng là do tầm quan trọng của vị nữ thần hơn là dành cho việc thờ cúng các vị vua: tên của họ đã bị thạch cao bao phủ.

Trên mảnh vỡ C-2 của tấm bia đá Palermo đã ghi lại rằng có hai bức tượng đứng to lớn của nhà vua đã được tạo ra, trong đó một bức tượng được làm bằng đồng, còn bức tượng còn lại thì được làm từ vàng nguyên chất.

Ngoài ra còn có hai hiện vật khác được trưng bày tại Bảo tàng Roemer-und Pelizaeus-Hildesheim được làm bằng đá thạch cao tuyết hoa. Một trong số đó có phần đầu là một nữ thần mèo (có thể là thần Bastet hoặc Sakhmet). Vị trí cánh tay phải của vị nữ thần cho thấy rằng bức tượng này trước kia đã từng thuộc về một nhóm tượng giống như những bức tượng bộ ba nổi tiếng của Mycerinus.

Một vài đầu tượng khác cũng có thể thuộc về Khufu. Một trong số đó có tên gọi là "đầu tượng Brooklyn" nằm trong Bảo tàng Brooklyn ở thành phố New York. Nó có kích thước 54,3 cm và được làm bằng đá granite màu hồng. Bởi vì đầu tượng này có gò má phúng phính thế nên nó được cho là của Khufu hoặc là của vua Huni. Một hiện vật tương tự cũng được trưng bày trong bộ sưu tập nghệ thuật Ai Cập của bang ở Munich. Phần đầu của nó được làm bằng đá vôi và chỉ có kích thước tương đối nhỏ là 5,7 cm.

Phù điêu

thumb|Mảnh vỡ phù điêu khắc họa Khufu cùng với Vương miện đỏ Hình ảnh của vua Khufu còn xuất hiện trên một vài mảnh phù điêu vỡ được phát hiện rải rác trong khu nghĩa địa của ông và ở những nơi khác. Tất cả các phù điêu này đều được chế tác từ loại đá vôi có chất lượng cao. Một vài phù điêu trong số đó đến từ khu đền thờ đổ nát của kim tự tháp và con đường đắp đã bị phá hủy, những bức tường của nó đã từng được bao phủ toàn bộ bằng các bức phù điêu này. Một số phù điêu khác lại được tái sử dụng trong vực nghĩa địa kim tự tháp của vua Amenemhat I tại Lisht cũng như tại Tanis và Bubastis

Tại Wadi Maghareh ở Sinai, có một bản khắc đá ghi lại tên và vương hiệu của Khufu như sau: "Hor-Medjedu, Khnum-Khuf, Bikuj-Nebu, vị thần vĩ đại và người kết liễu những kẻ sống trong hang động, cầu cho ngài luôn được phù hộ và mãi trường tồn". Trong một cảnh tượng khác vua Khufu lại đội vương miện kép và ngay gần bên cạnh là hình ảnh của thần Thoth. Trong một cảnh tượng khác nằm gần đó, Khufu đội vương miện Atef trong khi đang kết liễu một kẻ thù. Trong cảnh tượng này còn có sự xuất hiện của thần Wepwawet.

Một điều thú vị đó là không có bất cứ mảnh phù điêu vỡ nào khắc họa cảnh tượng vua Khufu đang dâng lễ vật lên cho một vị thần. Đây thực sự là một điều đáng lưu ý, bởi vì trên những bức phù điêu của Sneferu và của tất cả các vị vua từ Menkaura trở đi đều khắc họa cảnh tượng nhà vua đang dâng lễ vật lên cho một vị thần. Có thể chính bởi vì không có những phù điêu khắc họa cảnh tượng đặc biệt này đã khiến các sử gia Hy Lạp cổ đại cho rằng Khufu có thể đã thực sự đóng cửa tất cả các đền thờ và cấm tiến hành tất cả các nghi lễ hiến tế.

Khu vực nghĩa trang Kim tự tháp

thumb|Bản đồ khu nghĩa trang của Khufu thumb|[[Kim tự tháp Kheops|Đại Kim tự tháp.]] thumb|Vết dấu triện của Khufu cùng với tên của khu nghĩa trang của ông Akhet-Khufu. thumb|Tượng nhân sư lớn

Khu nghĩa trang nằm trong phức hợp kim tự tháp của Khufu được xây dựng ở khu vực phía đông bắc của cao nguyên Giza. Có thể bởi vì thiếu không gian xây dựng cũng như không có các mỏ đá vôi ở địa phương và nền đất ở Dahshur lại yếu cho nên buộc vua Khufu phải di chuyển vị trí của nó về phía bắc và cách xa khu nghĩa trang của vị tiên vương Sneferu. Khufu đã chọn khu vực đỉnh đồi của một cao nguyên tự nhiên để từ vị trí đó có thể quan sát được kim tự tháp tương lai của ông một cách rõ ràng. Khufu quyết định gọi khu nghĩa trang của ông là Akhet-Khufu (nghĩa là "chân trời của Khufu").

Đại Kim tự tháp có kích thước vào khoảng 750 x 750 ft (≙ 230,4 x 230,4 m) và ngày nay chiều cao của nó là 455,2 ft (≙ 138,8 m). Chiều cao ban đầu của nó là 481 ft (≙ 146.5 m), nhưng mà sau đó khối mũ đá hình chóp và lớp vỏ đá vôi đã bị cướp đi mất. Do lớp vỏ bên ngoài đã bị lấy đi cho nên chúng ta có thể nhìn thấy được toàn bộ phần lõi bên trong của kim tự tháp. Phần lõi bên trong được tạo nên từ những khối đá vôi có màu tối trong khi lớp vỏ ngoài của nó được chế tác từ đá vôi trắng. Khối mũ đá hình chóp có thể đã từng được che phủ bằng một lớp hợp kim vàng và bạc, nhưng hiện nay không có bằng chứng khảo cổ học nào chứng minh cho luận điểm trên. Tường và trần nhà của các hành lang cùng với các căn phòng bên trong kim tự tháp được làm từ đá granite bóng, nó là một trong những loại đá cứng nhất được biết đến dưới triều đại của Khufu. Loại vữa được sử dụng là một hỗn hợp của thạch cao, cát, bột đá vôi và nước.

Thời kỳ Trung vương quốc

Tại Wadi Hammamat, có một bản khắc đá có niên đại thuộc về vương triều thứ 12. Nó liệt kê 5 tên đồ hình: Khufu, Djedefra, Khafra, BaufraDjedefhor. Bởi vì tất cả tên gọi của các vị vua này đều được viết bên trong đồ hình cho nên người ta thường tin rằng Baufra và Djedefhor đã từng cai trị trong một thời gian ngắn, tuy nhiên các nguồn sử liệu đương thời chỉ ghi lại rằng họ là những vị hoàng tử. Tên của vua Khufu hiện diện trong danh sách này có thể chỉ ra rằng ông và những vị vua kế tục đã được thờ phụng như là các vị thần bảo hộ. Giả thuyết này đã được đề xướng nhờ vào việc phát hiện ra những chiếc bình bằng đá thạch cao tuyết hoa có tên của Khufu tại Koptos.

Thời kỳ Tân vương quốc

thumb|Cận cảnh tấm bia đá giấc mộng Vào thời kỳ Tân vương quốc, khu nghĩa trang của Khufu và các giáo phái thờ cúng hoàng gia ở địa phương đã được tái tổ chức và một lần nữa Giza lại trở thành một trung tâm về kinh tế và tôn giáo. Dưới vương triều thứ 18, vua Amenhotep II đã cho xây dựng một ngôi đền tưởng niệm và một tấm bia đá hoàng gia nổi tiếng ngay gần bức tượng Nhân sư lớn. Người con trai và cũng là vị vua, kế vị ông ta, Thutmose IV, đã ra lệnh dọn sạch cát đang vùi lấp bức tượng và cho dựng một bia đá tưởng niệm - gọi là "Tấm bia đá Giấc mộng" - nằm giữa hai chân trước của nó. Nội dung của hai tấm bia đá này đều khá giống nhau, nhưng không có bất cứ tấm bia đá nào ghi lại những thông tin kỹ lưỡng và hợp lý hơn về người thực sự đã cho xây dựng bức tượng nhân sư này

Khufu trong các tác phẩm Hy Lạp cổ đại

Manetho

Nhà sử học người Ai Cập Manetho gọi Khufu là "Sûphis" và ghi lại rằng ông đã cai trị tới 63 năm. Ông ta cũng đề cập đến việc Khufu là người đã cho xây dựng Đại Kim tự tháp, và rồi sau đó ông ta lại tuyên bố rằng sử gia Hy Lạp Herodotos cùng thời với mình viết rằng Đại kim tự tháp được xây dựng bởi một vị vua "Khéops" nào đó. Rõ ràng, Manetho đã nghĩ "Khéops" và "Sûiphis" là hai vị vua khác nhau. Manetho cũng nói rằng Khufu đã thể hiện sự bất kính đối với các vị thần, ngoài ra Khufu còn đã viết một cuốn sách thiêng về điều đó và chính bản thân ông ta (Manetho) đã có được quyển sách này trong chuyến hành trình rong ruổi khắp các vùng đất của Ai Cập. Câu chuyện về cuốn "Sách Thiêng" này bị các nhà Ai Cập ngày nay nghi ngờ, đây thật sự là một điều bất thường khi mà một vị pharaon lại đi viết một quyển sách và một tài liệu quý giá như thế lại có thể bị bán đi một cách dễ dàng đến như vậy.

Herodotos

Nhà sử học Hy Lạp Herodotos thì lại mô tả Khufu như là một bạo chúa tàn bạo và độc ác. Trong tác phẩm Historiae của mình, quyển II, chương 124-126, ông ta viết: "Miễn là Rhámpsinîtos vẫn còn đang làm vua, như họ đã nói với tôi, thì khi đó luật lệ vẫn còn được thực thi ở Ai Cập, và vùng đất này đã từng vô cùng thịnh vượng. Nhưng sau đó Khéops trở thành vua của họ và ông ta đã mang đến cho họ mọi khổ đau: Ông ta đã đóng cửa tất cả các đền thờ. Sau đó ông ta còn cấm các vị tư tế không được tiến hành hiến tế tại những nơi này nữa, không những vậy ông ta còn bắt toàn bộ người dân Ai Cập phải làm việc cho mình. Nhiều người đã phải kéo các khối đá từ những mỏ đá ở dãy núi Ả rập cho tới tận sông Nile, và những người khác sau khi tiếp nhận những khối đá được vận chuyển qua sông bằng thuyền, lại bị ông ta ép phải kéo chúng đến những nơi được gọi là dãy núi Libya. Và họ đã tiến hành như vậy với 100.000 người mỗi lần và cứ ba tháng một lần. Dưới ách áp bức này, đã phải mất 10 năm để xây dựng con đường đắp dùng vào việc kéo những khối đá, và theo như tôi nhìn nhận thì con đường này là một công trình không hề thua kém gì so với kim tự tháp. Nó có chiều dài khoảng 5 furlong và rộng khoảng 10 sải và nơi cao nhất của nó là 8 sải, nó còn được xây bằng loại đá vôi trơn nhẵn cùng với những tranh khắc ở trên nó.

Bản thân kim tự tháp này phải mất khoảng 20 năm để xây dựng; Và kim tự tháp này có đáy hình vuông, mỗi cạnh có kích thước 800 feet, và chiều cao của nó cũng gần như vậy. Nó được xây bằng loại đá vôi trơn nhẵn và được lắp với nhau theo một cách hoàn hảo nhất, không có bất cứ khối đá nào có chiều dài ngắn hơn 30 feet. Kim tự tháp này được xây dựng theo từng bậc một, mà đôi lúc còn được gọi là 'hàng' hoặc là 'đáy': Đầu tiên họ tiến hành như sau, họ nâng những khối đá còn lại lên bằng các máy móc làm từ các khúc gỗ ngắn, ban đầu họ nhấc chúng từ mặt đất lên đến tầng thứ nhất, và khi khối đá này lên tới nơi, nó được đặt lên trên một cái máy khác nằm ở tầng thứ nhất, và từ đó nó được kéo lên tầng thứ hai bằng một cái máy khác; Có bao nhiêu tầng thì lại có bấy nhiêu cái máy như vậy, hoặc có lẽ họ đã vận chuyển như vậy bằng cùng một cái máy mà được chế tạo để có thể dễ dàng mang theo đến từng tầng một cách liên tục, để giúp họ chúng có thể vận chuyển các khối đá; hoặc là bằng cả hai cách, theo như những gì được ghi chép lại. Tuy nhiên có thể phần đỉnh của nó đã được hoàn thành đầu tiên, tiếp đó họ tiến hành hoàn tất những tầng kế tiếp, và cuối cùng họ hoàn tất những phần nằm gần mặt đất của nó và là tầng thấp nhất.

Về phần kim tự tháp này, theo những gì được trình bày trên bản ghi chép của người Ai Cập về số lượng củ cải, hành và tỏi dành cho những người thợ, và nếu tôi như nhớ một cách chính xác những gì người thông dịch đã nói trong khi đang giải thích bản ghi chép này cho tôi, thì nó đã tiêu tốn tổng cộng 1.600 ta lăng bạc. Hơn nữa, Kheops còn trở thành một kẻ không còn nhân tính, vì muốn kiếm tiền, ông ta đã đẩy con gái của mình vào một nhà chứa và ra lệnh cho cô ta phải kiếm một khoản tiền nhất định từ những người khách làng chơi (họ đã không nói với tôi đó là bao nhiêu). Cô ấy không những kiếm được đủ số tiền theo lệnh của người cha, mà còn nghĩ ra một kế hoạch để nhằm có được một đài tưởng niệm của riêng mình: Cô yêu cầu mỗi người đàn ông đến với mình phải để lại cho cô một khối đá dành cho công trình của mình. Và từ những khối đá này, họ nói với tôi rằng một kim tự tháp đã được xây dựng nằm ngay trước Đại kim tự tháp và ở giữa ba kim tự tháp kia, mỗi cạnh dài 150 feet ".

Câu chuyện nổi tiếng nhất về Khufu và kim tự tháp của ông có thể tìm thấy trong tác phẩm Hitat (tên đầy đủ: al-Mawā'iẓ wa-'l-i'tibār fī ḏikr al-ḫiṭaṭ wa-'l-'āṯār), được Muhammad al-Maqrizi (1364-1442) viết vào năm 1430. Cuốn sách này bao gồm tập hợp một vài giả thuyết và những câu chuyện hoang đường về Khufu, đặc biệt là về Đại Kim tự tháp. Mặc dù vậy, bản thân vua Khufu lại ít khi được đề cập đến trong những câu truyện này, không những thế nhiều tác giả Ả rập lại tin rằng Đại Kim tự tháp (cũng như những kim tự tháp khác) đã được thần Hermes (được người Ả rập gọi là Iris) xây dựng nên

Những văn bản Lời than khóc nổi tiếng có niên đại vào thời kỳ chuyển tiếp thứ nhất lại bộc lộ một số quan điểm thú vị về những lăng mộ vĩ đại trong quá khứ; Vào thời điểm đó, chúng được nhìn nhận như là bằng chứng của sự phù phiếm. Tuy nhiên, những ghi chép này lại không cho thấy một sự ám chỉ mang tính tiêu cực nào về danh tiếng của các vị vua, và do đó chúng không đánh giá vua Khufu theo cách nhìn tiêu cực.

Một gợi ý khác liên quan đến danh tiếng xấu xa của Khufu theo cách nhìn nhận của người Hy Lạp và La mã có thể được ẩn giấu trong cách diễn giải tên vua Khufu theo tiếng Copt. Những ký tự tượng hình Ai Cập tạo nên tên "Khufu" được đọc theo tiếng Copt là "Shêfet", mà thực sự có nghĩa là "vận rủi" hoặc "tội lỗi" trong ngôn ngữ của họ. Cách diễn giải trên theo tiếng Copt bắt nguồn từ cách phát âm sau này của Khufu là "Shufu", và dẫn đến cách đọc theo tiếng Hy Lạp là "Suphis". Có lẽ các tác giả Hy Lạp và La Mã đã sao chép một cách vô thức ý nghĩa xấu của tên Khufu theo cách diễn giải của tiếng Copt Năm 1939, Nagib Mahfuz đã viết cuốn tiểu thuyết sự thông thái của Khufu dựa trên những câu chuyện trong cuộn giấy cói Westcar. Năm 1997, tác giả người Pháp Guy Brachet đã sáng tác tiểu thuyết Le roman des pyramides, gồm có năm tập, trong đó hai tập đầu (Le temple soleilRêve de pierre) đã lấy hình tượng của Khufu và lăng mộ của ông làm bối cảnh. Năm 2004, Page Bryant đã viết tác phẩm khoa học viễn tưởng Lần đến thứ hai của các vị thần từ những vì sao, đề cập tới việc Khufu đến từ vũ trụ. Cuốn tiểu thuyết Truyền thuyết về ma cà rồng Khufu do Raymond Mayotte viết vào năm 2010, kề về việc vua Khufu là một ma cà rồng và vừa tỉnh giấc sau một giấc ngủ dài trong kim tự tháp của ông.

Những bộ phim nổi tiếng đề cập đến Khufu hoặc ít nhất là có Đại Kim tự tháp làm bối cảnh bao gồm bộ phim Vùng đất của Pharaoh của Howard Hawks vào năm 1955, nôi dung của nó là một câu chuyện hư cấu về quá trình xây dựng Kim tự tháp Khufu, và bộ phim Stargate của Roland Emmerich vào năm 1994, với phần mở đầu kể về việc tìm thấy một thiết bị ngoài trái đất nằm gần khu vực các kim tự tháp.

Khufu và kim tự tháp của ông cũng còn là chủ đề trong các giả thuyết khoa học giả tưởng đề cập đến giả thuyết cho rằng kim tự tháp của Khufu được xây dựng nhờ vào sự giúp đỡ của người ngoài hành tinh và Khufu chỉ đơn giản là đã chiếm đoạt và tái sử dụng công trình này, các giả thuyết này đã bỏ qua các bằng chứng khảo cổ hoặc hoặc thậm chí đã làm sai lệch nó.

Ngoài ra, một tiểu hành tinh nằm gần quỹ đạo được đặt tên theo tên của Khufu: 3362 Khufu

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Khufu** ( ; thường được biết đến theo cách gọi ở Hy Lạp cổ đại là **Cheops** hay **Kheops**; tên đầy đủ là **Khnum Khufu** ) là một vị pharaon của vương triều thứ Tư
nhỏ|Bản tái tạo "con tàu mặt trời" của Khufu**Con tàu Khufu** là một con tàu còn nguyên vẹn, nó có từ thời Ai Cập Cổ đại và đã được niêm phong ở một cái hố
thumb|3362 Khufu ngày 29 tháng 11 năm 2007
Khufu takes about 359.47 days to orbit the Sun.[http://ssd.jpl.nasa.gov/sbdb.cgi?sstr=3362] **3362 Khufu** là một tiểu hành tinh gần Trái Đất. Nó được phát hiện bởi R. Scott Dunbar và
**Đại Kim tự tháp Giza** là Kim tự tháp Ai Cập lớn nhất và là lăng mộ của Vương triều thứ Tư của pha-ra-ông Khufu. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 26 trước Công
**Meritites II** (**Merytiotes, Meritetes**) hoặc **Meritites A** ("người yêu dấu của cha cô") là một công chúa triều đại thứ 4 của Ai Cập cổ đại, và có lẽ là con gái của vua Khufu.
**Hemon**, hay **Hemiunu**, là một hoàng thân và là tể tướng trong lịch sử Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 4. Ông được cho là người đã xây dựng nên Kim tự tháp
**Kauab** hay **Kawab** là một hoàng tử của Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Ông được chỉ định làm người kế vị ngai vàng nhưng đã mất trước cha mình
**Djedefre** (còn được gọi là **Djedefra** và **Radjedef**) là một vị vua Ai Cập cổ đại (pharaon) của vương triều thứ 4 thời kỳ Cổ vương quốc. Ông còn được biết đến với tên gọi
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Meritites._ **Meritites I** (nghĩa là "_Được cha yêu thương_") là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ
**Hetepheres I **là một vương hậu Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 4. ## Thân thế Hetepheres I có thể là con gái của pharaon Huni (Vương triều thứ 3), mặc dù bà
**Ankhhaf** là một hoàng tử thuộc Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại và là tể tướng dưới triều vua Khufu. ## Gia đình Ankhhaf là con của pharaon Sneferu với
**Hetepheres II** là một công chúa và là một vương hậu Ai Cập cổ đại thuộc Vương triều thứ 4. ## Tiểu sử Hetepheres II là con gái của pharaon Khufu và vương hậu Meritites
nhỏ|Kim tự tháp G1-c|266x266px **Henutsen** là một vương hậu sống vào thời kỳ Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. ## Tiểu sử Rất ít thông tin về cuộc đời của
:_Đối với những người có cùng tên gọi, xem Meresankh._ nhỏ|Vị trí ngôi mộ G 7410 - 7420 **Meresankh II** là một công chúa, đồng thời là một vương hậu sống vào đầu thời kỳ
**Nefertiabet** ("_Người đẹp của phương Đông_") là một công chúa thuộc Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Bà có thể là một người con gái của pharaon Khufu. ## Mastaba
**Quần thể kim tự tháp Giza** (, "các kim tự tháp Giza") là một địa điểm khảo cổ ở bình nguyên Giza, Giza, ngoại ô thủ đô Cairo, Ai Cập. Quần thể các di tích
**Khafra** (còn được gọi là **Khafre**, **Khefren** và **Chephren**) là một vị vua Ai Cập cổ đại (pharaon) của vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là con trai của vua
**Sneferu** (cũng còn gọi là **Snefru** hoặc **Snofru**), còn được biết đến với tên **Soris** theo tiếng Hy Lạp (bởi Manetho), là vị vua đã sáng lập nên vương triều thứ 4 thuộc thời kỳ
**Vassil Dobrev** là 1 nhà Ai Cập học người Pháp chuyên nghiên cứu về Ai Cập cổ đại. Ông là người đầu tiên cho rằng tượng Đại Nhân sư ở Giza được pharaoh Djedefre cho
Quang cảnh các kim tự tháp Giza nhìn từ cao nguyên phía nam khu tổ hợp. Từ trái sang phải: [[Kim tự tháp Menkaure, Kim tự tháp Khafre và Kim tự tháp Khufu. 3 kim
**Kim tự tháp Khafre**, là kim tự tháp lớn thứ hai trong quần thể kim tự tháp tại Giza. Đây là nơi chôn cất của Khafre, vị pharaon thứ 4 thuộc Vương triều thứ Tư
**Nefertkau III** là một công chúa Ai Cập cổ đại. Bà sống trong triều đại thứ 4. Bà có thể là con gái của Meresankh II và Horbaef. Nếu vậy, bà là cháu gái của
|- id="26" | colspan="3" id="27" style="text-align:center; font-size:95%; padding:0.6em 0em 0.6em 0em;" |thế=|giữa|510x510px|Vị trí của Cổ vương quốc
Cổ Vương quốc Ai Cập (khoảng năm 2686 TCN - khoảng năm 2181 TCN), lãnh
**Hawkgirl** là một nữ siêu anh hùng của hãng truyện tranh Mỹ DC Comics. Nhân vật này được biết đến với tên gọi **Shiera Sanders Hall** hay **Shayera Hol** và **Kendra Saunders**. Nữ siêu anh
Bảy kì quan thế giới cổ đại **Bảy kì quan thế giới cổ đại** là một danh sách được nhiều người biết đến liệt kê các công trình kiến trúc và điêu khắc trong thời
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Djoser** (hay còn được đọc là ** Djeser** và **Zoser**) là vị pharaon nổi tiếng nhất và được xem là người sáng lập ra Vương triều thứ 3 vào thời Cổ Vương quốc Ai Cập.
**Menkaure**, hay **Menkaura** hoặc _Men-Kau-Re_ (còn gọi là **Mykerinus** theo tiếng Latin, **Mykerinos** theo tiếng Hy Lạp và **Menkheres** theo Manetho), là một vị pharaon của Vương triều thứ 4 thuộc thời kì Cổ vương
nhỏ|phải|Tượng Nhân sư nhỏ|phải|[[Tượng Nhân sư lớn ở Giza, với Kim tự tháp Khafre ở phía sau]] **Nhân sư** là một nhân vật động vật thần thoại được thể hiện như một con sư tử
**Tượng Nhân sư lớn ở Giza** ( , ), thường được biết đến với tên gọi **tượng Nhân sư**, là một bức tượng làm bằng đá vôi hình một con nhân sư (một sinh vật
trái|nhỏ|229x229px| Tên một phần của Persenet từ ngôi mộ của bà ở Giza **Persenet (Personet, Per-sent)** là một nữ hoàng Ai Cập cổ đại của triều đại thứ 4. Bà có thể là con gái
Một mảnh vỡ của tấm bia đá Palermo ghi chép lại sự trở về của đội tàu dưới triều đại của Sneferu - Bảo tàng Petrie, London **Vương triều thứ Tư của Ai Cập cổ
nhỏ|Khnum và Atum, bức họa trên mộ của [[Seti I]] nhỏ|Khnum và Sekhmet (ảnh chụp tại đền thờ Esna) **Khnum** (cũng viết là **Khnemu**, **Khenmu**, **Khenmew**, **Chnum**) là một vị thần đầu linh dương trong
**Bảo tàng Ai Cập** hay **Bảo tàng Cairo** (tên đầy đủ trong tiếng Anh: _Museum of Egyptian Antiquities;_ tiếng Ả Rập:_المتحف المصري_) là một viện bảo tàng ở thành phố Cairo, là nơi trưng bày
**Nefermaat I** là một hoàng tử và là tể tướng thuộc Vương triều thứ 4 trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Tên của ông có nghĩa là "_Ma'at xinh đẹp_" hay "_Công lý hoàn
**Meritites**, còn được viết là **Meryetites**, là tên của một vài vị vương hậu, công chúa trong lịch sử Ai Cập cổ đại. Tên gọi này có thể chỉ đến những người sau: * Meritites
**Khnumhotep I** là một nomarch cai quản nome Oryx (nome thứ 16 của Thượng Ai Cập), sống vào thời trị vì của pharaon Amenemhat I thuộc Vương triều thứ 12 trong lịch sử Ai Cập
Toán học trong nghệ thuật: Bản khắc trên tấm đồng mang tên _[[Melencolia I_ (1514) của Albrecht Dürer. Những yếu tố liên quan đến toán học bao gồm com-pa đại diện cho hình học, hình
Đây là bài nhằm phân loại, sắp xếp theo chủ đề các bài trong lĩnh vực mật mã học. ## Các thuật toán mã hóa cổ điển * Mật mã khóa tự động [http://en.wikipedia.org/wiki/Autokey_cipher] *
**Ai Cập** ( , , ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Ả Rập Ai Cập**, là một quốc gia liên lục địa có phần lớn lãnh thổ nằm tại Bắc Phi, cùng với
**Thamphthis** là tên gọi theo tiếng Hy Lạp của một vị vua Ai Cập cổ đại (pharaoh) thuộc vương triều thứ Tư vào thời kỳ Cổ vương quốc, ông có thể đã trị vì trong
**Sahure** (có nghĩa là "Ngài là người gần gũi với Re") là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông còn là vị vua thứ hai của vương triều thứ năm và đã cai trị
**Amenemhat I**, hay **Amenemhet I**, là vị pharaon đầu tiên của Vương triều thứ 12 của Ai Cập cổ đại vào thời Trung Vương quốc. Amenemhat I là Tể tướng dưới triều vua Mentuhotep IV
**Neferirkare Kakai** (được biết đến trong tiếng Hy Lạp là Nefercherês, Νεφερχέρης) là một pharaon của Ai Cập cổ đại, ông là vị vua thứ ba của vương triều thứ Năm. Neferirkare là con trai
Trong toán học và nghệ thuật, hai đại lượng được gọi là có **tỷ số vàng** hay **tỷ lệ vàng** nếu tỷ số giữa tổng của các đại lượng đó với đại lượng lớn hơn
phải|nhỏ|Các [[kim tự tháp Ai Cập ở quần thể kim tự tháp Giza, nhìn từ trên không. Quần thể này được xây dựng vào khoảng năm 2600 TCN.]] phải|nhỏ|Đền Prasat Thom ở [[Koh Ker, Campuchia]]
**Naguib Mahfouz** (tiếng Ả Rập: نجيب محفوظ _Nağīb Maḥfūẓ_; 11 tháng 11 năm 1911 – 30 tháng 8 năm 2006) là một nhà văn Ai Cập đoạt giải Nobel Văn học năm 1988. Ông được
phải|nhỏ|Huy hiệu của NSA **Cơ quan An ninh Quốc gia Hoa Kỳ**/**Cục An ninh Trung ương** (tiếng Anh: _National Security Agency_/C_entral Security Service_, viết tắt _NSA_/_CSS_) là cơ quan thu thập các tin tức tình
## Chủ đề lớn|Sân thi đấu Robocon 2010. "Thử tài xây dựng kim tự tháp cùng pharaoh" là chủ đề của cuộc thi lần này. Ý tưởng được dựa trên việc một cỗ máy thời
**Manetho** là một nhà sử học đồng thời là giáo sĩ Ai Cập cổ đại, sinh trưởng ở miền Heliopollis vào khoảng thế kỷ 4 TCN. Dưới sự bảo trợ của vua Ptolemée I, ông