✨Phương pháp Euler

Phương pháp Euler

thumb|Minh họa phương pháp Euler. Đường cong chưa biết có màu xanh da trời và lời giải gần đúng của nó là đường nhiều cạnh màu đỏ. Trong toán học và khoa học máy tính, phương pháp Euler là một phương pháp số bậc một để giải các phương trình vi phân thường (ODEs) với giá trị ban đầu cho trước. Nó là phương pháp hiện (explicit) cơ bản nhất cho việc tính tích phân số của các phương trình vi phân thường và là phương pháp Runge-Kutta đơn giản nhất. Phương pháp Euler được đặt theo tên của Leonhard Euler, người đã đề cập đến phương pháp này trong cuốn sách Institutionum calculi integralis của ông (xuất bản 1768-1770).

Phương pháp Euler là một phương pháp bậc một, có nghĩa là sai số cục bộ (sai số mỗi bước) tỷ lệ thuận với bình phương của kích thước bước, và sai số tổng thể (sai số tại một thời điểm nào đó) tỷ lệ thuận với kích thước bước. Phương pháp Euler thường phục vụ như là cơ sở để xây dựng các phương pháp phức tạp hơn, ví dụ như, phương pháp Dự đoán- Hiệu chỉnh.

Mô tả hình học phi chính thức

Xem xét bài toán tính toán hình dạng của một đường cong chưa biết bắt đầu tại một điểm cho trước và thỏa mãn một phương trình vi phân nào đó. Ở đây, phương trình vi phân có thể được coi như là một công thức mà nhờ nó độ dốc của đường tiếp tuyến với đường cong có thể được tính toán tại điểm bất kỳ nào trên đường cong, một khi vị trí của điểm đó đã được tính toán.

Ý tưởng là trong khi đường cong ban đầu chưa biết, điểm khởi đầu của nó được biểu thị bởi A_0, là đã biết (xem hình phía trên bên phải). Thì, từ phương trình vi phân, độ dốc của đường cong tại A_0 có thể được tính toán, và vì vậy, có thể tìm được đường tiếp tuyến.

Đi một bước nhỏ dọc theo đường tiếp tuyến đến một điểm A_1. Dọc bước nhỏ này, độ dốc không thay đổi quá nhiều, vì vậy A_1 sẽ gần với đường cong. Nếu chúng ta coi A_1 vẫn còn nằm trên đường cong, cùng một lý luận như đối với điểm A_0 có thể tính được độ dốc và tiếp tuyến của đường cong tại A_1. Sau vài bước, một đường cong đa giác A_0A_1A_2A_3\dots được tìm ra. Nói chung, đường cong này không phân kỳ quá xa khỏi đường cong chưa biết ban đầu, và sai số giữa hai đường cong có thể được làm nhỏ nếu kích thước bước là đủ nhỏ và khoảng thời gian tính toán là hữu hạn. :y'(t) = f(t,y(t)), \qquad \qquad y(t_0)=y_0.

Chọn một giá trị h cho kích thước của mỗi bước và đặt t_n = t_0 + nh. Bây giờ, một bước của phương pháp Euler từ tn tới t{n+1} = t_n + h là

: y_{n+1} = y_n + hf(t_n,y_n).

Giá trị của y_n là một lời giải gần đúng của phương trình ODE tại thời điểm t_n: y_n \approx y(tn). Phương pháp Euler là phương pháp hiện, nghĩa là lời giải y{n+1} là một hàm hiện của y_i với i \leq n.

Trong khi phương pháp Euler tích phân một ODE bậc nhất, ODE bất kỳ bậc N có thể được biểu diễn như là một ODE bậc nhất: để xử lý phương trình

: y^{(N)}(t) = f(t, y(t), y'(t), \ldots, y^{(N-1)}(t)) ,

chúng ta giới thiệu các biến phụ z_1(t)=y(t), z_2(t)=y'(t),\ldots, z_N(t)=y^{(N-1)}(t) và có được phương trình tương đương

: \mathbf{z}'(t) = \begin{pmatrix} z1'(t)\ \vdots\ z{N-1}'(t)\ z_N'(t) \end{pmatrix} = \begin{pmatrix} y'(t)\ \vdots\ y^{(N-1)}(t)\ y^{(N)}(t) \end{pmatrix} = \begin{pmatrix} z_2(t)\ \vdots\ z_N(t)\ f(t,z_1(t),\ldots,z_N(t)) \end{pmatrix}

Đây là một hệ bậc nhất với biến \mathbf{z}(t) và có thể được giải bằng phương pháp Euler hoặc bằng bất kỳ lược đồ nào được sử dụng để giải các hệ bậc nhất.

Ví dụ

Cho bài toán giá trị ban đầu

:y'=y, \quad y(0)=1,

chúng ta muốn sử dụng phương pháp Euler để xấp xỉ y(4).

Sử dụng kích thước bước bằng 1 (h = 1)

thumb|Minh họa tích phân số cho phương trình y'=y, y(0)=1. Màu xanh da trời là phương pháp Euler; màu xanh lá cây là[[midpoint method|phương pháp điểm giữa; màu đỏ là lời giải chính xác, y=e^t. Kích thước bước là h = 1.0.]] Phương pháp Euler là:

: y_{n+1} = y_n + hf(t_n,y_n). \qquad \qquad

vì vậy trước tiên chúng ta phải tính toán f(t_0, y_0). Trong phương trình vi phân đơn giản này, hàm f được định nghĩa bởi f(t,y) = y. Chúng ta có

: f(t_0,y_0) = f(0,1) = 1. \qquad \qquad

Bằng cách thực hiện bước trên, chúng ta đã tìm được độ dốc của đường thẳng tiếp tuyến với đường cong lời giải tại điểm (0,1).

Nhớ lại rằng độ dốc được định nghĩa là sự thay đổi trong y chia cho sự thay đổi trong t, tức là \Delta y/ \Delta t.

Bước tiếp theo là nhân giá trị trên với kích thước bước h, cái chúng ta lấy bằng một ở đây:  : h \cdot f(y_0) = 1 \cdot 1 = 1. \qquad \qquad

Bởi vì kích thước bước là sự thay đổi trong t, khi chúng ta nhân kích thước bước và độ dốc của tiếp tuyến, chúng ta có được sự thay đổi trong giá trị y. Giá trị này sau đó sẽ được thêm vào giá trị y ban đầu để có được giá trị tiếp theo được sử dụng để tính toán.

: y_0 + hf(y_0) = y_1 = 1 + 1 \cdot 1 = 2. \qquad \qquad

Các bước trên sẽ được lặp đi lặp lại để tìm ra y_2, y_3 y_4.

: \begin{align} y_2 &= y_1 + hf(y_1) = 2 + 1 \cdot 2 = 4, \ y_3 &= y_2 + hf(y_2) = 4 + 1 \cdot 4 = 8, \ y_4 &= y_3 + hf(y_3) = 8 + 1 \cdot 8 = 16. \end{align}

Do tính chất lặp đi lặp lại của thuật toán này, nên tổ chức các bước tính toán dưới dạng biểu đồ, như thấy bên dưới, để tránh tạo ra các sai sót.

:

Đáp án cuối cùng là y_4 = 16 . Lời giải chính xác của phương trình vi phân là y(t) = e^t , vì vậy y(4) = e^4 \approx 54.598 . Như vậy, lời giải gần đúng của phương pháp Euler không thật sự tốt trong trường hợp này. Tuy nhiên, như hình vẽ cho thấy, ứng xử của nó là đúng về mặt định tính.

Sử dụng các kích thước bước khác

thumb|Với cùng minh họa cho trường hợp h = 0.25. Như đã nói trong phần giới thiệu, phương pháp Euler sẽ chính xác hơn nếu kích thước bước h nhỏ hơn. Bảng dưới đây cho thấy kết quả với các kích thước bước khác nhau. Hàng trên cùng tương ứng với ví dụ trong phần trước, và hàng thứ hai được minh họa trong hình.

:

Sai số được ghi ở cột cuối cùng của bảng là sự khác biệt giữa lời giải chính xác tại t = 4 và lời giải gần đúng Euler. Ở dưới cùng của bảng, kích thước bước bằng một nửa kích thước bước ở hàng trên nó, và sai số cũng bằng khoảng một nửa sai số trong dòng trên nó. Điều này cho thấy rằng sai số gần như là tỷ lệ với kích thước bước, ít nhất là đối với các giá trị kích thước bước tương đối nhỏ. Điều này nói chung, cũng đúng cho các phương trình khác; xem phần Sai số cắt cụt tổng thể để biết thêm chi tiết.

Các phương pháp khác, chẳng hạn như phương pháp điểm giữa cũng được minh họa trên các hình, và có vẻ chính xác hơn: sai số của phương pháp điểm giữa gần như tỷ lệ thuận với bình phương của kích thước bước. Vì lý do này, phương pháp Euler được gọi là một phương pháp bậc nhất, trong khi phương pháp điểm giữa là phương pháp bậc hai.

Chúng ta có thể ngoại suy từ bảng trên rằng kích thước bước cần thiết để có được một đáp án chính xác đến ba chữ số thập phân là khoảng 0,00001, có nghĩa là chúng ta cần 400.000 bước. Con số bước rất lớn này đòi hỏi một chi phí tính toán cao. Vì lý do này, người ta thường sử dụng các phương pháp bậc cao, thay thế cho phương pháp Euler, như là các phương pháp Runge-Kutta hoặc các phương pháp đa bước tuyến tính, đặc biệt là nếu muốn đạt được độ chính xác cao.

Nguồn gốc

Phương pháp Euler có thể được rút ra theo một số cách. Cách thứ nhất, đó là mô tả hình học đã được đề cập ở trên.

Một khả năng khác là xem xét mở rộng Taylor của hàm y around t_0:  : y(t_0 + h) = y(t_0) + h y'(t_0) + \frac{1}{2}h^2 y''(t_0) + O(h^3).

Phương trình vi phân y'=f(t,y). Nếu phương trình vi phân này thay vào trong mở rộng Taylor và các số hạng bậc hai và bậc cao hơn bị bỏ qua, thì sẽ có được phương pháp Euler. Mở rộng Taylor được sử dụng dưới đây để phân tích sai số của phương pháp Euler, và nó có thể được mở rộng để đạt được các phương pháp Runge-Kutta.

Một cách khác là để thay thế công thức sai phân hữu hạn tiếp tới cho đạo hàm, : y'(t_0) \approx \frac{y(t_0+h) - y(t_0)}{h}

trong phương trình vi phân y' = f(t,y). Một lần nữa, điều này đem lại phương pháp Euler.[8] Theo cách tương tự sẽ dẫn đến quy tắc điểm giữa và phương pháp Euler lùi lại.

Cuối cùng, ta có thể tích phân phương trình vi phân từ t_0 tới t_0 + h và áp dụng các định lý cơ bản của tích phân và vi phân để có được:

: y(t_0+h) - y(t0) = \int{t_0}^{t_0+h} f(t,y(t)) \,\mathrm{d}t.

Bây giờ xấp xỉ tích phân bằng phương pháp hình chữ nhật bên trái:

: \int_{t_0}^{t_0+h} f(t,y(t)) \,\mathrm{d}t \approx h f(t_0, y(t_0)).

Kết hợp cả hai phương trình, ta lại tìm thấy phương pháp Euler một lần nữa. Cách tiếp cận này có thể được tiếp tục để đi đến nhiều phương pháp đa bước tuyến tính khác.

Sai số cắt cụt cục bộ

Sai số cắt cụt cục bộ của phương pháp Euler là sai số trong một bước duy nhất. Đó là sự khác biệt giữa lời giải số sau một bước, y_1, và lời giải chính xác tại thời điểm t_1 = t_0+h. Lời giải số được cho bởi

: y_1 = y_0 + h f(t_0, y_0). \quad

Đối với lời giải chính xác, chúng ta sử dụng mở rộng Taylor được đề cập trong phần Nguồn gốc phía trên:

: y(t_0 + h) = y(t_0) + h y'(t_0) + \frac{1}{2}h^2 y''(t_0) + O(h^3).

Sai số cắt cụt cục bộ (LTE) của phương pháp Euler được cho bởi sự khác biệt giữa các phương trình này:

: \mathrm{LTE} = y(t_0 + h) - y_1 = \frac{1}{2} h^2 y''(t_0) + O(h^3).

Kết quả này là hợp lý nếu y có một đạo hàm bậc ba bị chặn (bounded).

Điều này cho thấy rằng đối với h nhỏ, các sai số cắt cụt cục bộ xấp xỉ tỷ lệ thuận với h^2 do đó làm cho phương pháp Euler kém chính xác (đối với h nhỏ) hơn so với các phương pháp bậc cao khác như các phương pháp Runge-Kutta và các phương pháp đa bước tuyến tính, mà sai số cắt cụt cục bộ tỷ lệ thuận với một số mũ cao hơn của kích thước bước.

Một cách xây dựng công thức hơi khác cho sai số cắt cụt cục bộ là sử dụng dạng thức Lagrange cho số hạng còn lại trong định lý Taylor. Nếu y có đạo hàm bậc hai liên tục, thì tồn tại một \xi \in [t_0,t_0+h] mà : \mathrm{LTE} = y(t_0 + h) - y_1 = \frac{1}{2} h^2 y''(\xi).

Trong các biểu thức sai số trên, đạo hàm bậc hai của lời giải chính xác chưa biết y có thể được thay thế bằng một biểu thức ở phía bên phải của phương trình vi phân. Thật vậy, từ phương trình y'=f(t,y) ta có

:y''(t_0) = {\partial f\over\partial t}(t_0, y(t_0)) + {\partial f\over\partial y}(t_0, y(t_0)) \, f(t_0, y(t_0)).

Sai số cắt cụt tổng thể

Sai số cắt cụt tổng thể là sai số tại một thời điểm cố định t, sau nhiều bước nhiều phương pháp cần phải thực hiện để đạt được thời điểm đó từ thời điểm ban đầu. Sai số cắt cụt tổng thể là tích lũy của các sai số cắt cụt cục bộ đã phạm phải trong mỗi bước trước đó. Số lượng các bước được dễ dàng xác định là (t-t_0)/h, tỷ lệ thuận với 1/h, và sai số đã phạm phải trong mỗi bước tỷ lệ thuận với h^2(xem phần trước). Vì vậy, mong đợi rằng sai số cắt cụt tổng thể sẽ tỷ lệ thuận với h.

Lý luận trực quan này có thể được chứng minh là chính xác. Nếu lời giải y có đạo hàm bậc hai bị chặn (bounded) và f là Lipschitz liên tục trong đối số thứ hai của nó, thì sai số cắt cụt tổng thể (GTE) được bao (bounded) bởi: : |\text{GTE}| \le \frac{hM}{2L}(e^{L(t-t_0)}-1) \qquad \qquad trong đó M là một giới hạn trên cho đạo hàm bậc hai của y trên khoảng thời gian nhất định nào đó và L là hằng số Lipschitz của f.

Dạng thức chính xác của giới hạn này ít quan trọng trong thực tế, trong hầu hết các trường hợp, giới hạn này quá lớn so với sai số thực sự phạm phải bởi phương pháp Euler.[16] Điều quan trọng là nó cho thấy rằng sai số cắt cụt tổng thể (một cách gần đúng) tỷ lệ thuận với. Vì lý do này, phương pháp Euler được cho/ gọi là bậc nhất.

Sự ổn định số của phương pháp Euler

thumb|Lời giải của phương trình y' = -2.3y được tính toán bằng phương pháp Euler với kích thước bước h=1 (các hình vuông màu xanh da trời) và h=0.7 (các hình tròn màu đỏ). Đường cong màu đen biểu diễn lời giải chính xác. Phương pháp Euler cũng có thể không ổn định về mặt phương pháp số, đặc biệt là đối với các phương trình cứng, có nghĩa là lời giải số tăng rất nhanh trong khi lời giải chính xác không (tăng). Điều này có thể được minh họa bằng cách sử dụng phương trình tuyến tính : y' = -2.3y, \qquad y(0) = 1. thumb|Hình tròn lớn màu hồng biểu diễn vùng ổn định đối với phương pháp Euler Lời giải chính xác là y(t) = e^{-2.3t}, phân rã về không khi t \to \infty. Tuy nhiên, nếu phương pháp Euler được áp dụng cho phương trình này với kích thước bước h=1, thì lời giải số là sai về mặt định tính: nó dao động và tăng (xem hình). Đây là những gì có nghĩa là không ổn định. Nếu kích thước bước nhỏ hơn được sử dụng, ví dụ h=0.7, thì lời giải số không phân rã về không.

Nếu phương pháp Euler được áp dụng cho phương trình tuyến tính y' = k y, thì lời giải số không ổn định nếu tích số hk nằm bên ngoài vùng : { z \in \mathbf{C} \mid |z+1| \le 1 }, được minh họa ở phía bên phải. Vùng này được gọi là vùng không ổn định (tuyến tính). Trong ví dụ, k bằng -2,3, vì vậy nếu h=1 thì hk = -2,3 tức là nằm bên ngoài vùng ổn định, và do đó lời giải số là không ổn định.

Sự hạn chế này —cùng với việc hội tụ sai số chậm với h— làm cho phương pháp Euler không được sử dụng thường xuyên, ngoại trừ như một ví dụ đơn giản của tích phân số.

Các sai số làm tròn

Thảo luận từ trên đến giờ đã bỏ qua những hậu quả của sai số làm tròn. Trong bước n của phương pháp Euler, sai số làm tròn là xấp xỉ độ lớn εyn trong đó ε là Machine epsilon (giới hạn trên của sai số tương đối do làm tròn trong số học điểm nổi). Giả sử rằng các sai số làm tròn tất cả có kích thước xấp xỉ như nhau, sai số làm tròn tổng hợp trong N bước là xấp xỉ _N_εy0 nếu tất cả các sai số chỉ về cùng hướng. Bởi vì số lượng bước tỉ lệ nghịch với kích thước bước h, tổng sai số làm tròn tỷ lệ thuận với ε / h. Trong thực tế, tuy nhiên, vô cùng khó xảy ra trường hợp tất cả các sai số làm tròn chỉ về cùng một hướng. Nếu thay vào đó giả định rằng các sai số làm tròn là các biến làm tròn độc lập, thì tổng sai số làm tròn tỷ lệ thuận với \varepsilon / \sqrt{h} .

Vì vậy, đối với những giá trị kích thước bước cực nhỏ, sai số cắt cụt sẽ nhỏ nhưng tác động của sai số làm tròn có thể lớn. Hầu hết các tác động của sai số làm tròn có thể dễ dàng tránh được nếu phép tổng đền bù (compensated summation) được sử dụng trong việc xây dựng công thức cho phương pháp Euler.

Hiệu chỉnh và mở rộng

Một hiệu chỉnh đơn giản của phương pháp Euler loại bỏ các vấn đề ổn định đã lưu ý trong phần trước là phương pháp Euler lùi lại (backward): : y_{n+1} = yn + h f(t{n+1}, y{n+1}). Phương pháp này khác với phương pháp Euler (tiêu chuẩn, hoặc tiếp tới) là hàm f được đánh giá tại điểm cuối của bước, thay vì điểm xuất phát. Phương pháp Euler lùi lại là một phương pháp ẩn, có nghĩa là công thức của phương pháp Euler lùi lại có y{n+1} ở cả hai bên, vì vậy khi áp dụng phương pháp Euler lùi lại chúng ta phải giải một phương trình. Điều này làm cho việc thực hiện tốn kém (thời gian,...) hơn.

Những hiệu chỉnh khác của phương pháp Euler đối với sự ổn định đã đưa đến phương pháp Euler mũ hoặc phương pháp Euler bán ẩn.

Các phương pháp phức tạp hơn có thể đạt được bậc cao hơn (và chính xác hơn). Một khả năng đó là sử dụng nhiều hơn các đánh giá hàm. Điều này được minh họa bằng phương pháp điểm giữa đã được đề cập trong bài viết này: : y_{n+1} = y_n + h f \Big(t_n + \tfrac12 h, y_n + \tfrac12 h f(t_n, y_n) \Big). Điều này dẫn đến họ của các phương pháp Runge-Kutta.

Một khả năng khác là sử dụng nhiều hơn các giá trị quá khứ, như được minh họa bằng phương pháp Adams-Bashforth hai bước:  : y_{n+1} = yn + \tfrac32 h f(t{n}, y{n}) - \tfrac12 h f(t{n-1}, y_{n-1}). Điều này dẫn họ của các phương pháp đa bước tuyến tính.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Minh họa phương pháp Euler. Đường cong chưa biết có màu xanh da trời và lời giải gần đúng của nó là đường nhiều cạnh màu đỏ. Trong toán học và khoa học máy tính,
Trong giải tích số, các **phương pháp Runge-Kutta** là một họ của các phương pháp lặp ẩn (implicit) và hiện (explicit), trong đó bao gồm thường trình nổi tiếng được gọi là các phương pháp
**Leonhard Euler** ( , ; 15 tháng 4 năm 170718 tháng 9 năm 1783) là một nhà toán học, nhà vật lý học, nhà thiên văn học, nhà lý luận và kỹ sư người Thụy
Trong động lực học chất lưu tính toán, các **phương pháp chụp sốc** là một loại kỹ thuật sử dụng cho việc tính toán dòng chảy không nhớt với sóng xung kích (shock waves). Tính
**Phương trình Pell** (Pell's equation) là bài toán tìm nghiệm nguyên Diophantine bậc hai với yêu cầu là giải một trong những phương trình nghiệm nguyên sau: :dạng chính tắc (còn gọi là _phương trình
**Phương trình Navier-Stokes**, là hệ các phuơng trình đạo hàm riêng miêu tả dòng chảy của các chất lỏng và khí (gọi chung là chất lưu), được đặt theo tên của kỹ sư-nhà vật lý
Trong toán học, công **thức Euler-Maclaurin** là một công thức cho sự khác biệt giữa một tích phân và tổng có liên quan chặt chẽ. Nó có thể được sử dụng để tính gần đúng
**Phương trình bậc bốn** là một phương trình đơn biến có bậc cao nhất là 4. ## Tiểu sử Năm 1545 Girolamo Cardano(1501 - 1576) cho xuất bản cuốn Ars Magna, trong đó có trình
thumb|[[Đồ thị nửa lôgarit của các nghiệm của phương trình x^3+y^3+z^3=n cho số nguyên x, y, và z, với 0\le n\le 100. Dải màu xanh lá cây đánh dấu các giá trị n được chứng
Mục đích của bài viết này là làm nổi bật những điểm quan trọng về nguồn gốc của các phương trình Navier–Stokes cũng như các ứng dụng và việc xây dựng công thức cho các
thumb|220x124px | right| phép biến đổi Laplace của hàm f(t) = t và ảnh của nó là hàm F(s) = 1/s^2. F(s) cũng chính là phần diện tích bên dưới đường cong y = t.e^(-st)
Bài viết này là **danh sách các thuật toán** cùng một mô tả ngắn cho mỗi thuật toán. ## Thuật toán tổ hợp ### Thuật toán tổ hợp tổng quát * Thuật toán Brent: tìm
Trong đại số, **định thức Brahmagupta–Fibonacci** biến tích của hai tổng hai số chính phương thành tổng của hai số chính phương dưới hai cách khác nhau. Cụ thể hơn, định lý phát biểu :\begin{align}
**Jean-Gaston Darboux** FAS MIF FRS FRSE (sinh ngày 14 tháng 8 năm 1842 – mất ngày 23 tháng 2 năm 1917) là một nhà toán học người Pháp. ## Cuộc sống Theo [http://www2.culture.gouv.fr/LH/LH060/PG/FRDAFAN83_OL0658046V041.htm giấy khai sinh
**Mikhail Vasilyevich Ostrogradsky** (, , 24 tháng 9 năm 1801 – 1 tháng 1, 1862) là một nhà toán học, cơ học, vật lý học người Nga. Ostrogradsky được cho là truyền nhân của Leonhard
nhỏ|Bức Tranh _Die Tafelrunde_ của họa sĩ [[Adolph von Menzel. Bữa ăn của Voltaire, cùng vua Phổ Friedrich II Đại Đế và các viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Berlin.]] **Phong trào Khai sáng**,
phải|Bài toán II.8 trong _Arithmetica_ của Diophantus, với chú giải của Fermat và sau đó trở thành định lý Fermat cuối cùng (ấn bản 1670) **Định lý cuối cùng của Fermat** (hay còn gọi là
Số e được Jacob Bernoulli giới thiệu vào năm 1683. Hơn nửa thế kỷ sau, Euler, người từng là học trò của em trai Jacob, Johann, đã chứng minh rằng e là số vô tỉ;
**Évariste Galois** (25 tháng 10 năm 1811, Bourg-la-Reine – 31 tháng 5 năm 1832, Paris) là nhà toán học người Pháp. Anh nổi tiếng nhất với lý thuyết Galois - lý thuyết nghiên cứu về
thế=Groups of two to twelve dots, showing that the composite numbers of dots (4, 6, 8, 9, 10, and 12) can be arranged into rectangles but the prime numbers cannot|nhỏ| Hợp số có thể được
**Lý thuyết số** là một ngành của toán học lý thuyết nghiên cứu về tính chất của số nói chung và số nguyên nói riêng, cũng như những lớp rộng hơn các bài toán mà
Số **pi** (ký hiệu: ****), còn gọi là **hằng số Archimedes**, là một hằng số toán học có giá trị bằng tỷ số giữa chu vi của một đường tròn với đường kính của đường
right|thumb|upright=1.35|alt=Graph showing a logarithmic curve, crossing the _x_-axis at _x_= 1 and approaching minus infinity along the _y_-axis.|[[Đồ thị của hàm số|Đồ thị của hàm logarit cơ số 2 cắt trục hoành tại và đi
Bài này nói về từ điển các chủ đề trong toán học. ## 0-9 * -0 * 0 * 6174 ## A * AES * ARCH * ARMA * Ada Lovelace * Adrien-Marie Legendre *
[[Đồ thị hàm sin]] [[Đồ thị hàm cos]] [[Đồ thị hàm tan]] [[Đồ thị hàm cot]] [[Đồ thị hàm sec]] [[Đồ thị hàm csc]] Trong toán học nói chung và lượng giác học nói riêng,
thumb|[[đồ thị Cayley|Đồ thị Cayley Q8 cho thấy sáu chu trình nhân bởi , và . (Nếu ảnh được mở trong Wikimedia Commons bằng cách nhấn đúp vào nó thì các chu trình có thể
_Cuốn [[The Compendious Book on Calculation by Completion and Balancing_]] Từ _toán học_ có nghĩa là "khoa học, tri thức hoặc học tập". Ngày nay, thuật ngữ "toán học" chỉ một bộ phận cụ thể
nhỏ|240x240px| Hằng số toán học [[Pi| là một số vô tỉ được thể hiện nhiều trong văn hóa đại chúng. ]] phải|nhỏ|240x240px| Số [[Căn bậc hai của 2| là số vô tỉ ]] Trong toán
nhỏ|Hình 1- Bơm ly tâm Warman ứng dụng trong máy chế biến than **Bơm ly tâm** là loại máy thủy lực cánh dẫn, nhờ bánh công tác (cánh quạt) cơ năng của máy chuyển sang
**Mô hình Ramsey- Cass- Koopmans** hay còn gọi là **mô hình tăng trưởng Ramsey**, là một mô hình tăng trưởng kinh tế tân cổ điển được dựa trên kết quả nghiên cứu của Frank P.
Trong lý thuyết đồ thị, một **đồ thị phẳng** là một đồ thị có thể được nhúng vào mặt phẳng, tức là có thể được vẽ trên mặt phẳng sao cho các cạnh chỉ gặp
**Kiểm tra Solovay-Strassen** là một trong các phương pháp kiểm tra tính nguyên tố theo xác suất do Robert M. Solovay và Volker Strassen phát triển. ## Ký hiệu Legendre và tiêu chuẩn Euler ###
thumb|right|[[Đường cong Tschirnhausen là một ví dụ về đường cong đại số bậc ba.]] Trong toán học, **đường cong phẳng đại số affin** là tập nghiệm của đa thức hai biến. **đường cong phẳng đại
**Lý thuyết dây** là một thuyết hấp dẫn lượng tử, được xây dựng với mục đích thống nhất tất cả các hạt cơ bản cùng các lực cơ bản của tự nhiên, ngay cả lực
Trong toán học, **định lý cơ bản của đại số** khẳng định rằng mọi đa thức một biến khác hằng số với hệ số phức có ít nhất một nghiệm phức. Điều đó tương đương
thumb|[[Miền tô màu của chỉnh hình tetration {}^{z}e, với hue đại diện cho đối số hàm và độ sáng đại diện cho độ lớn]] thumb|{}^{n}x, với , cho thấy sự hội tụ theo số mũ
**Friedrich II** (24 tháng 1 năm 171217 tháng 8 năm 1786) là vua nước Phổ trị vì từ ngày 31 tháng 5 năm 1740 cho đến khi qua đời vào ngày 17 tháng 8 năm
nhỏ|300x300px|Một hình dạng đặc trưng trong khí động học, giả định một môi trường nhớt từ trái qua phải, biểu đồ thể hiện phân bố áp suất như trên đường viền màu đen (độ dày
_[[Nhà thiên văn học (Vermeer)|Nhà thiên văn_, họa phẩm của Johannes Vermeer, hiện vật bảo tàng Louvre, Paris]] **Thiên văn học** là một trong những môn khoa học ra đời sớm nhất trong lịch sử
**Johann Carl Friedrich Gauß** (; ; ; 30 tháng 4 năm 1777 – 23 tháng 2 năm 1855) là một nhà toán học và nhà khoa học người Đức tài năng, người đã có nhiều
phải|Hình vẽ miêu tả [[hàm số sin(_x_) và các xấp xỉ Taylor của nó, tức là các đa thức Taylor bậc 1, 3, 5, 7, 9, 11
**Pascal** là một ngôn ngữ lập trình cho máy tính thuộc dạng mệnh lệnh và thủ tục, được Niklaus Wirth phát triển vào năm 1970. Pascal là ngôn ngữ lập trình đặc biệt thích hợp
**Cờ vua** (), đôi khi còn được gọi là **cờ quốc tế** để phân biệt với các biến thể như cờ tướng, là một trò chơi board game dành cho hai người. Sau thời gian
Triều lên (nước lớn) và triều xuống (nước ròng) tại [[vịnh Fundy.]] **Thủy triều** là hiện tượng nước biển, nước sông... lên xuống trong một chu kỳ thời gian phụ thuộc biến chuyển thiên văn.
[[Joseph-Louis Lagrange (1736—1813)]] **Cơ học Lagrange** là một phương pháp phát biểu lại cơ học cổ điển, do nhà toán học và thiên văn học người Pháp-Ý Joseph-Louis Lagrange giới thiệu vào năm 1788. Trong
Trong toán học, **sophomore's dream** là hai đồng nhất thức (đặc biệt là cái đầu tiên): :\begin{align} \int_0^1 x^{-x}\,dx &= \sum_{n=1}^\infty n^{-n} \\ \int_0^1 x^x \,dx &= \sum_{n=1}^\infty (-1)^{n+1}n^{-n} = - \sum_{n=1}^\infty (-n)^{-n} \end{align} được
nhỏ|Khu vực hấp dẫn kỳ lạ phát sinh từ một [[phương trình vi phân. Phương trình vi phân là một lĩnh vực quan trọng của giải tích toán học với nhiều ứng dụng cho khoa
nhỏ|[[Biểu đồ Venn cho thấy hợp của _A_ và _B_]] Trong tổ hợp, một nhánh của toán học, **nguyên lý bao hàm-loại trừ** (hay **nguyên lý bao hàm và loại trừ** hoặc **nguyên lý bù
**Luật tương hỗ bậc hai** hay **luật thuận nghịch bình phương** là một định lý trong lý thuyết số trong đó xét hai số nguyên tố lẻ, _p_ và _q_, và các mệnh đề :
nhỏ|372x372px|Cơ chế nạp xả thông tin và giá trị mindsponge trong bài nghiên cứu khởi điểm ) và triển khai xuất bản cùng với giáo sư Nancy K. Napier của Đại học bang Boise (Boise