Phi Đồng (chữ Hán: 邳彤, ? – 30), tự Vĩ Quân, người Tín Đô , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. Ông được dân gian thờ phụng làm Dược vương.
Cuộc đời
Cha ông là Phi Cát (邳吉), làm Liêu Tây thái thú.
Thời nhà Tân, Đồng làm Hòa Thành tốt chính. Lưu Tú đi Hà Bắc, đến Hạ Khúc Dương , ông dâng thành xin hàng, được dùng lại làm Thái thú. Sau khi ở lại vài ngày, Lưu Tú tiếp tục bắc tiến đến Kế, gặp lúc Vương Lang nổi lên, khắp nơi hưởng ứng hắn ta, chỉ có Hòa Thành, Tín Đô là không theo. Đồng nghe tin Lưu Tú từ Kế trở về, mất quân đội, muốn đến Tín Đô, bèn trước tiên sai Ngũ quan duyện Trương Vạn, Đốc bưu Doãn Tuy tuyển 2000 thớt tinh kỵ, ven đường đón Lưu Tú. Sau đó ông cùng Lưu Tú hội họp ở Tín Đô.
Lưu Tú tuy được 2 quận giúp đỡ, nhưng lực lượng chưa mạnh, nhiều người bàn nên về Trường An. Đồng phản đối, Lưu Tú nghe theo, ngay hôm ấy bái ông làm Hậu đại tướng quân, Hòa Thành thái thú như cũ, sai đưa quân đi trước. Đồng tiến đến Đường Dương, sai Trương Vạn, Doãn Tuy khuyên bảo quan dân. Lưu Tú đến trong đêm, thành lập tức mở cửa ra đón. Ông phá nghĩa quân Bạch Xa (白奢) ở Trung Sơn. Từ đây thường theo quân, lập chiến công.
Tín Đô làm phản theo Vương Lang. Lang bắt được cả nhà Đồng, sai sứ đến khuyên hàng, ông rơi nước mắt từ chối. Về sau, Canh Thủy đế sai tướng đánh lấy Tín Đô, cả nhà Đồng thoát nạn.
Khi hạ Hàm Đan, được phong Vũ Nghĩa hầu. Năm 25, thăng phong Linh Thọ hầu, coi việc Đại tư không. Quang Vũ đế vào Lạc Dương, bái Đồng làm Thái thường, hơn tháng chuyển làm Thiếu phủ, trong năm ấy thì miễn chức. Lại được làm Tả tào thị trung, thường theo quân chinh phạt. Năm 30, mất, được chôn cất ở cửa nam Kỳ Châu .
Cố sự miếu Dược vương
Phiên bản 1
Phi Đồng khi còn sống tinh thông dược lý, đi khắp nơi để trị bệnh, được tôn xưng là "Dược vương".
Có một năm, Phi Đồng ghé qua kinh thành, gặp lúc công chúa bệnh nặng, ngự y bó tay hết cách. Hoàng đế cho người đi khắp hang cùng ngõ hẹp tìm danh y, hứa rằng "Ai chữ khỏi cho công chúa, muốn vàng bạc, ắt được trọng thưởng; muốn làm Phò mã, ắt được gả công chúa." Phi Đồng tự tay gỡ bảng vàng, trải qua một phen vọng, văn, vấn, thiết, biết được công chúa tiêu hóa không tốt, dẫn đến đường ruột bị ứ tắc. Sau khi trở về, ông lấy bùn đất trên người làm ra một hoàn thuốc, dâng lên công chúa. Sau khi dùng xong, công chúa đau bụng dữ dội, ói mửa ra hết những gì đã ăn vào, mấy ngày sau thì có thể sinh hoạt bình thường. Phi Đồng sợ bí mật về hoàn thuốc lộ ra, nên bỏ trốn về làng. Hoàng đế nhớ công, phong làm Dược vương, tại quê nhà Kỳ Châu của ông cho lập miếu kỷ niệm.
Miếu "Dược vương" trải qua các triều đại, luôn được trùng tu, đến nay hương hỏa không dứt. Ngày 28 tháng 4 và 15 tháng 10 Âm lịch hằng năm, huyện An Quốc đều tổ chức miếu hội, tương truyền là để kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của "Dược vương" Phi Đồng.
Phiên bản 2
Vào đời Tống, trước miếu thổ địa ở Kỳ Châu có hàng da. Một ngày nọ, trước miếu có dán bảng vàng, thì ra Hoàng đế muốn tìm danh y chữa bệnh cho công chúa. Người kéo đến xem bảng nườm nượp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc làm ăn của hàng da. Thợ da (Hán Việt: Bì tượng) trong lúc giận mất khôn, giật bảng vàng xuống. Đặc sứ lập tức đưa người giật bảng vàng về kinh, không màng đến lời van xin, giải thích của thợ da.
Trong lúc chờ vào thăm bệnh cho công chúa, thợ da toát mồ hôi như tắm, chợt nghĩ ra kế thoát thân. Ông lấy bùn đất trên người vo làm hoàn thuốc, giao cho Hoàng môn lang, nói đây là thuốc gia truyền trị bách bệnh, cứ dâng lên công chúa, còn mình chỉ là thợ da, nào biết thăm bệnh như thế nào!?
Phần sau của phiên bản này cũng tương tự như phiên bản trên. Miếu "Dược vương" do vậy còn được gọi là miếu "Bì vương".
Khảo chứng
Trải qua khảo chứng, có thể thấy Tướng quân Phi Đồng và "Dược vương" Phi Đồng không phải là 1 người. Đến đời Tống, dân gian bắt đầu đồng hóa hai nhân vật này làm một.
Miếu "Dược vương" ước đoán được lập vào những năm Thái Bình Hưng Quốc (976 – 984) đời Tống. Năm Kiến Trung Tĩnh Quốc đầu tiên (1101), được Tống Huy Tông cáo phong. Vị thần được thờ ở miếu "Dược vương" khi ấy chắc chắn không phải là Phi Đồng. Kỳ Châu (An Quốc) là địa phương nổi tiếng với nghề làm thuốc ở Trung Quốc cho đến tận ngày nay, thần miếu ban đầu có thể là Thần Nông (?).
Có thuyết cho rằng tướng quân Phi Đồng được tôn là thần thổ địa của trấn Bì Trường, tức Bì Trường vương, gọi tắt là Bì vương. Có lẽ theo thời gian, Bì vương – thổ địa đã được đồng hóa với Bì vương – Dược vương. Đến đời Thanh, biển tên của miếu là thủ bút của Lưu Dung, cho thấy sự đồng hóa này đã hoàn tất. Tuy nhiên, vẫn chưa có bằng chứng xác nhận Bì Trường vương chính là Phi Đồng.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Phì Đông **Phì Đông** chữ Hán giản thể: 肥东县, âm Hán Việt: _Phì Đông huyện_) là một huyện thuộc địa cấp thị Hợp Phì, tỉnh An Huy, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Phì Đông
thumb|Đông Phi thumb|Bản đồ [[Đông Phi thuộc Anh năm 1911|282x282px]] **Đông Phi** là khu vực ở phía đông của lục địa châu Phi, được định nghĩa khác nhau tùy theo địa lý học hoặc địa
**Đại bàng rừng châu Phi**, tên khoa học **_Stephanoaetus coronatus_**, là một loài chim săn mồi lớn trong họ Accipitridae, sống ở vùng hạ Sahara châu Phi. Môi trường sống ưa thích của nó là
**Phi Đồng** (chữ Hán: 邳彤, ? – 30), tự Vĩ Quân, người Tín Đô , tướng lĩnh, khai quốc công thần nhà Đông Hán, một trong Vân Đài nhị thập bát tướng. Ông được dân
**Nhất giai Quý phi Nguyễn thị** (chữ Hán: 一階貴妃 阮氏; ? – 1885), không rõ tên húy, nguyên là chính thất của vua Đồng Khánh nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Bà mất sau
**Phí Đông Bân** (tiếng Trung giản thể: 费东斌, bính âm Hán ngữ: _Fèi Dōngbīn_, sinh tháng 8 năm 1970, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là Ủy
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
phải|Hình ảnh của châu Phi chụp từ vệ tinh **Châu Phi** hay **Phi châu** (_l'Afrique_, _Africa_) là châu lục đứng thứ hai trên thế giới về dân số (sau châu Á), thứ ba về diện
nhỏ|phải|Một người béo phì **Béo phì** là một tình trạng bệnh lý, đôi khi được xem là một căn bệnh, trong đó mô mỡ trong cơ thể đã tích tụ đến mức có thể gây
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
**Kế toán chi phí** là quá trình ghi lại, phân loại, phân tích, tóm tắt và phân bổ chi phí liên quan đến một quy trình, sau đó phát triển các khóa hành động khác
**Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝獻端敬皇后; ; 1639 - 23 tháng 9, năm 1660), Đổng Ngạc thị, thường được gọi là **Đổng Ngạc phi** (董鄂妃), **Đổng Ngạc Hoàng quý phi** (董鄂皇貴妃), **Đoan
**Trâu rừng châu Phi** (tên tiếng Anh: **African buffalo** hoặc **Cape buffalo** (trâu Cape), danh pháp hai phần: _Syncerus caffer_) là một loài lớn thuộc họ Trâu bò ở châu Phi. Loài trâu này không
**Linh dương sừng xoắn châu Phi** (danh pháp hai phần: **_Addax nasomaculatus_**), còn được gọi là _linh dương trắng_ (_white antelope_) là một loài linh dương thuộc chi _Addax_, sinh sống tại hoang mạc Sahara
thumb|right|Hai người đồng tính nam hôn nhau trong một buổi diễu hành đồng tính. thumb|right|Biểu tượng đại diện cho người đồng tính nam được tạo nên từ hai biểu tượng của [[sao Hỏa lồng vào
**Trâu rừng rậm châu Phi** (Danh pháp khoa học: **_Syncerus caffer nanus_**) hay còn gọi là **Trâu đỏ** là phân loài nhỏ nhất của trâu rừng châu Phi. Nó có liên quan mật thiết đến
thumb|Thứ phi Cung tần thời [[nhà Minh.]] **Thứ phi** là phiên âm Hán Việt của hai danh xưng chữ Hán khác biệt chỉ đến bộ phận thiếp hoặc phi tần của tầng lớp vua chúa
**Ninh Khác phi** (chữ Hán: 寧愨妃; ? - 1694), Đổng Ngạc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Thân thế Ninh Khác phi xuất thân từ dòng họ
**Khác Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 愨惠皇貴妃; 1668 - 1743), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng
**Đoan Khác Hoàng quý phi** (chữ Hán: 端恪皇貴妃; 1844 - 1910), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Văn Tông Hàm Phong Hoàng đế. ## Thân thế ### Dòng dõi đại tông Đoan
**Trinh phi Đổng Ngạc thị** (chữ Hán: 貞妃董鄂氏; ? - 5 tháng 2, 1661) là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế. Bà là em họ của Đổng Ngạc hoàng quý phi,
**Ôn Tĩnh Hoàng quý phi** (chữ Hán: 溫靖皇貴妃, 6 tháng 10, năm 1873 – 20 tháng 10, năm 1924), còn gọi là **Đức Tông Cẩn phi** (德宗瑾妃) hoặc **Đoan Khang Thái phi** (端康太妃), là một
nhỏ|phải|Ẩm thực [[Cộng hòa Nam Phi|Nam Phi, với thịt động vật hoang dã và nước sốt truyền thống đựng trong các lọ phía trước.]] **Ẩm thực châu Phi** là một nét văn hóa chủ yếu
**Cộng đồng Đông Phi** (tiếng Anh: _East African Community_, viết tắt: **EAC**) là một tổ chức liên chính phủ của 6 nước Đông Phi là Burundi, Kenya, Rwanda, Tanzania, Uganda và Nam Sudan. EAC vốn
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Mèo rừng châu Phi** (**_Felis lybica_**) là một loài mèo rừng. Chúng hình thành và tách biệt khỏi các nòi mèo khác vào khoảng 131.000 năm về trước. Một số cá thể mèo rừng châu
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế
**Thục Gia Hoàng quý phi** (chữ Hán: 淑嘉皇貴妃, 14 tháng 9 năm 1713 - 17 tháng 12 năm 1755), Kim Giai thị (金佳氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần người gốc Triều
**Tinh trung Nhạc Phi** (tiếng Trung: 精忠岳飞; Phiên âm: _Jīng Zhōng Yuè Fēi_) là một bộ phim truyền hình thể loại dã sử cổ trang của Trung Quốc, với nội dung kể về cuộc đời
**Ôn Hi Quý phi** (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 19 tháng 12 năm 1694), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Nữu Hỗ Lộc thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và
**Đông Phi thuộc Đức** (, viết tắt tiếng Đức là _GEA_) là thuộc địa của Đế quốc Đức ở Đông Phi. Lãnh thổ của nó thuộc về Rwanda, Burundi, Tanzania và bắc Mozambique ngày nay,
**Cung Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恭顺皇贵妃; 1787 - 23 tháng 4, năm 1860), Nữu Hỗ Lộc thị, Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế.
**Voi đồng cỏ châu Phi** hoặc còn gọi là **Voi bụi rậm châu Phi**, **Voi xavan** (_Loxodonta africana_) là một trong hai loài trong Chi Voi châu Phi (Loxodonta) cùng với Voi rừng châu Phi
**Lợn biển Tây Phi** (danh pháp hai phần: _Trichechus senegalensis_) là một loài động vật có vú trong họ Trichechidae, bộ Sirenia. Nó chủ yếu ăn thực vật. Lợn biển Tây Phi có thể được
phải|Đầu đại bàng với mỏ cong màu vàng và lông trắng ở đầu. Trứng non của đại bàng cá châu Phi. **Đại bàng cá châu Phi** (danh pháp khoa học: **_Haliaeetus vocifer_**) là một loài
**Chó hoang châu Phi** (danh pháp hai phần: _Lycaon pictus_) là một loài động vật có vú trong họ Chó phân bố ở châu Phi. Loài này được Temminck mô tả năm 1820. Chó hoang
**Người Colombia** gốc Phi là công dân Colombia gốc châu Phi. Colombia có dân số châu Phi da đen lớn thứ tư ở bán cầu Tây, sau Brasil, Haiti và Hoa Kỳ. ## Lịch sử
**Du Quý phi Hải thị** (chữ Hán: 愉貴妃海氏; 16 tháng 6 năm 1714 - 9 tháng 7 năm 1792), là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long Hoàng đế. Bà được biết đến
**Đông Phi thuộc Ý** () là một thuộc địa của Ý ở vùng Sừng châu Phi. Nó được thành lập vào năm 1936 thông qua việc sáp nhập Somaliland thuộc Ý, Eritrea thuộc Ý và
**Beo vàng châu Phi** (tên khoa học **_Caracal aurata_**) là một loài mèo hoang cỡ vừa trong họ Mèo. Loài này được mô tả bởi Severtzov vào năm 1858. Chúng phân bố ở các khu
**Linh miêu đồng cỏ** (danh pháp: **_Leptailurus serval_**) hay **serval** hay **tierboskat**, là một loài mèo hoang dã phân bố tại châu Phi. Đây là thành viên độc nhất thuộc chi _Leptailurus_ và được nhà
**Nghi phi Quách Lạc La thị** (chữ Hán: 宜妃郭络罗氏, ? - 1733), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. Bà là
**Vinh phi Mã Giai thị** (chữ Hán: 荣妃马佳氏; 1652- 6 tháng 3, năm 1727), là một trong những phi tần vào hầu sớm nhất Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Thân thế ### Nhập
**Linh dương đen Đông Phi** (danh pháp hai phần: **_Hippotragus niger_**) là một loài động vật thuộc họ Trâu bò, chúng sinh sống ở sống ở rừng thảo nguyên phía nam của Kenya ở Đông
**Voi rừng châu Phi** (danh pháp hai phần: **_Loxodonta cyclotis_**) là một loài voi sống ở trong rừng tìm thấy ở vùng lòng chảo Congo. Nó là loài voi nhỏ nhất trong ba loài voi
**Đoan Thuận phi** (chữ Hán: 端順妃; ? - 1709), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Tiểu sử Đoan Thuận phi xuất thân
**Nhím gai lùn châu Phi** hay **nhím lùn châu Phi** (Danh pháp khoa học: _Atelerix albiventris_) là một loài nhím gai thuộc phân họ Erinaceidae phân bố ở châu Phi. Đây là loài nhím được
**Voi châu Phi** (danh pháp khoa học: **_Loxodonta_**) là một chi trong họ Elephantidae, là họ của các loài voi. Mặc dù nói chung người ta tin rằng chi này được Georges Cuvier đặt tên
**Chuột gai châu Phi** (danh pháp khoa học: **_Acomys percivali_**) là một loài động vật có vú trong họ Chuột, bộ Gặm nhấm. Loài này được Dollman mô tả năm 1911., Môi trường sống tự