✨Thứ phi

Thứ phi

thumb|Thứ phi Cung tần thời [[nhà Minh.]]

Thứ phi là phiên âm Hán Việt của hai danh xưng chữ Hán khác biệt chỉ đến bộ phận thiếp hoặc phi tần của tầng lớp vua chúa các chế độ phong kiến Đông Á thuộc vùng văn hóa chữ Hán như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Việt Nam.

Hai danh xưng này có sự khác biệt rất lớn, đặc biệt là danh phận và đãi ngộ: "Thứ phi" (với ) còn được gọi là Thứ thất, được xem là một nửa chính thất, có đãi ngộ tương đối đặc thù; còn "Thứ phi" (với ) là cách gọi chung cho tất cả các thiếp, hầu không có danh phận rõ ràng.

Phân biệt

Thân phận Thứ thất

Danh xưng Thứ phi (次妃) xuất hiện từ thời kỳ Thượng Cổ, các vị Vua chúa cổ đại lấy nhiều người vợ chính và nhiều vợ thứ, đều xưng là Phi. Trong khi người lớn nhất hàng vợ chính được gọi là "Nguyên phi" (元妃) hay "Chính phi" (正妃), thì người thứ được gọi là "Thứ phi".

Chữ "Thứ" (次) trong chữ Hán chỉ đến vị trí "ở ngay sau", "bậc hai", do đó những thứ phi này thường đều cùng một hạng với chính phi, tức là được làm lễ thành hôn theo quy củ đúng đắn và được công nhận bởi nhà chồng, thế nhưng chi tiết lễ nghi này sẽ lại kém đi một chút so với người chính phi, việc này có phần giống chế độ Bình thê. Từ thời nhà Hán đến hết thời nhà Tống, hai thân phận "Chính thê""Thiếp thị" trong hoàng thất được phân biệt rõ ràng, chính phi của các hoàng tử thân vương là người vợ cả duy nhất, còn thiếp hầu gọi bằng những danh xưng như Nhụ nhân (孺人) hay Dắng (媵), những thân phận "Bán chính thê" không mấy khi được đề cập, chỉ duy có các hoàng đế là được hưởng đặc quyền sở hữu các "Bán chính thê" này thông qua những vị trí như Quý phi hoặc Thục phi. Thế nhưng, hai thời kỳ nhà Minh và nhà Thanh lại nổi rộ lên danh phận này trong hàng ngũ hoàng thân, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương quy định: các Hoàng thái tử, Hoàng tử Thân vương và Hoàng tôn Quận vương ngoài chính phi còn có một dạng thứ thất được hưởng một nửa thân phận chính thê, ấy chính là "Thứ phi". Theo đó, các thứ phi cũng được làm lễ thành hôn như chính phi, cũng có hưởng phẩm phục áo mũ ("Minh sử ghi là hàm Chính nhị phẩm"), cũng được yết kiến tổ tông triều Minh trong Phụng Tiên điện và cũng được sử dụng nghi trượng tương tự với các chính phi. Thế nhưng các thứ phi này vẫn phải thua chính phi ở một mức độ để biểu thị đích-thứ, như hôn lễ không Thân nghênh (親迎), không Truyền chế (傳制) và không làm lễ Thụ sách (受冊). Bên cạnh đó, loại nghi trượng mà thứ phi được dùng cũng phải giảm đi một lượng so với chính phi, đồng thời khi vào cửa cũng phải bái chính phi y hệt lễ bái chồng mình. Về chỗ ngồi ngày bái lạy trưởng bối, thứ phi ngồi ở chỗ hướng Đông gọi là "Đông tọa" (東坐), tức ở bên tay trái của "Chính tọa" (正坐) - nơi dành cho vương và chính phi.

Thời kỳ nhà Thanh định thân phận này bằng danh xưng Trắc phi (側妃), ứng với Trắc Phúc tấn. Địa vị của họ cũng như thứ phi, đều có mũ áo và hôn lễ, thời kỳ trước Càn Long thì họ không khác gì các bình thê. Tuy nhiên sau thời kỳ Càn Long, trắc phi đã có một thân phận xa với chính phi, mặc dù đãi ngộ và vị trí của họ trong vương phủ vẫn cao hơn một quãng xa nếu so với các thị thiếp khác.

Thân phận Thiếp hầu

Thân phận Thứ phi (庶妃), lại gọi Cung tần (宮嬪), thường dùng để chỉ các hầu thiếp trong hậu cung từ bậc Tần trở xuống, hoặc là một phương thức gọi chung các phi tần không có danh hiệu chính thức, hoặc không được phân ra rõ ràng. Chữ (庶) là từ chữ Hán chỉ tầng lớp bình thường trong 5 thân phận của xã hội Đông Á cổ đại, so với chữ (次) thì có khoảng cách rất lớn, vì thế cách gọi "Thứ phi" này là danh từ quy rộng nói đến thiếp hầu phận thấp.

Trong lịch sử Trung Quốc cổ đại, "Thứ phi" chỉ là một danh xưng gọi các phi tần không rõ thân phận, nên cũng gọi là Cung nhân (宮人) hoặc Hậu cung (後宮). Thời kỳ nhà Hán đến nhà Đường, các thân phận nằm ngoài thứ hạng quy định trong hậu cung đều được liệt vào thứ phi, như Vương Chiêu Quân trước khi được gả sang Hung Nô thì trong một thời gian dài là thứ phi của Hán Nguyên Đế Lưu Thích với thân phận Lương gia tử (良家子). Vào đời Hán, thân phận "Lương gia tử" này tương ứng với Gia nhân tử, mà sách Hán thư có ghi rõ các Gia nhân tử chỉ nhận đãi ngộ theo mùa, thậm chí còn không được xét vào 14 bậc chính thức trong hậu cung vì không được đãi ngộ thạch gạo chính thức mà chỉ là đơn vị đấu. Cá biệt còn có những thân phận tình nhân không rõ ràng của hoàng đế cũng được úp mở thân phận thứ phi, bao gồm Sào Lạt vương phi Dương thị của Đường Thái Tông Lý Thế Dân cùng Ngụy Quốc phu nhân Hạ Lan thị của Đường Cao Tông Lý Trị. Triều đại nhà Tống có cách phân biệt rất cụ thể các thứ phi và các phi tần có phong hiệu chính thức, họ gọi những thứ phi này là Ngự thị (御侍), và thông thường đều được phong tước vị của Mệnh phụ là Quận quân (郡君). Để phân biệt với Quận quân là mẹ hoặc vợ của quan viên triều đình, các Ngự thị được phong Quận quân đều sẽ được gọi theo hình thức: "Ngự thị (phong hiệu) Quận quân". Nơi ở của họ được triều đình gọi là "Hợp" (閤), còn từ Ngũ phẩm Tài nhân trở lên gọi là "Phòng viện" (房院) để phân biệt. Thời kỳ nhà Minh, dưới Hoàng hậu là các bậc Hoàng quý phi, Quý phi, Phi và Tần được quy định rõ ràng, những ai không có sách phong của hoàng đế thì được xưng là Cơ thị (姬侍), thời Minh Thế Tông còn có cách gọi Vị phong Cung ngự (未封宫御), nếu có ân sủng thì họ sẽ được hưởng ân thưởng theo quy tắc trong cung nhưng không có danh xưng. Mặc dù các thứ phi này tuy được thừa nhận là phi tần chính thức, nhưng đãi ngộ chính thức không được duy trì nhất quán, trong trường hợp hoàng đế băng hà thì các thứ phi có thể bị đem tuẫn táng cùng hoàng đế, họ không được dùng lễ an táng và cũng không được dựng bia mộ, chỉ có thể hỏa táng.

Thời Hậu Kim, các vị Thê thiếp của Hãn vương đều xưng Phúc tấn. Thời Nỗ Nhĩ Cáp Xích, các bà vợ có địa vị cao nhất sẽ được goi là "Đại Phúc tấn", các bà vợ thứ có địa vị cao được xưng "Trắc Phúc tấn", còn lại sẽ được gọi là "Thứ Phúc tấn", tương đương danh xưng Hán ngữ là "Chính phi", "Trắc phi" cùng "Thứ phi". Lúc này vì lý do lễ nghi và tư duy thời kỳ ban sơ, hiện tượng các phi tần triều Thanh "không có phong hiệu chính thức dù có đãi ngộ" đã trở nên hết sức bình thường, như Hiếu Khang Chương Hoàng hậu - mẹ của Khang Hi Đế, sinh thời chỉ là một thứ phi có đãi ngộ hàng "Phúc tấn", hoàn toàn không có phong vị chính thức. Đến thời Khang Hi, triều đình nhà Thanh đã ban định Bát đẳng Hậu phi (八等后妃), trừ Hoàng hậu ra thì phi tần các cấp bậc như sau:

Hoàng quý phi: 1 người tại vị;

Quý phi: 1 người tại vị; đến thời Càn Long đổi thành 2 người tại vị;

Phi: 4 người tại vị;

Tần: 6 người tại vị;

Quý nhân: không hạn định;

Thường tại: không hạn định;

Đáp ứng: không hạn định;

Và dù đã ban ra 8 bậc này, thế nhưng hậu cung suốt thời kỳ Khang Hi vẫn còn có rất nhiều người đương thời chỉ là thứ phi, song đãi ngộ lại dùng các nhu thiết của các bậc đã quy định ở trên, ví dụ như Khác Huệ Hoàng quý phi lẫn Tuyên phi đều từng có những đãi ngộ hàng Phi; lại như Bình phi Hách Xá Lý thị từ khi vào cung lần lượt từ đãi ngộ Quý nhân lên thẳng đãi ngộ hàng Phi, nhưng đến khi qua đời thì bà mới được triều đình định phong hiệu là "Bình".

Sang thời Ung Chính, các cung nữ được sủng hạnh đều có đãi ngộ thuộc hàng phi tần dù danh phận không rõ ràng, họ là các Quan nữ tử. Bởi vì chỉ từ Tần trở lên mới nhận sách phong và có phong hiệu, Quý nhân trở xuống trong hậu cung nhà Thanh vẫn tương ứng cách gọi thứ phi, họ không được hưởng phong hiệu mà chỉ gọi bằng xưng hiệu và không được ban áo mũ chính thức.

Chế độ nhà Nguyễn

Cũng như các triều đại khác, Hậu cung nhà Nguyễn cũng vẫn có những thứ dạng được liệt vào hàng thứ phi, ấy là Cung nhân (宮人), Cung nga (宮娥) cùng Thị nữ (侍女).

Đây là những thứ phi ở nội đình đông đảo nhất, nhiều hơn các phi tần có sách phong bậc cung giai, tức là từ Tài nhân trở lên. Nhận định này được xác định thông qua sự xuất hiện các bài vị của Cung nhân, Cung nga, Thị nữ chiếm rất nhiều trong các điện thờ trên các lăng tẩm triều Nguyễn. Tuy nhiên, các thứ phi này không có sách phong chính thức nào cả, là mức cơ bản nhất của người được chọn làm thứ phi khi mới vào nội đình, sau đó có biểu hiện tốt thì mới sách phong lên bậc cao. Hằng năm, Nội vụ phủ sẽ cung cấp đồ mùa xuân và mùa đông chia đều cho các cấp bậc từ thứ phi đến nữ quan thị tỳ.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Thứ phi Cung tần thời [[nhà Minh.]] **Thứ phi** là phiên âm Hán Việt của hai danh xưng chữ Hán khác biệt chỉ đến bộ phận thiếp hoặc phi tần của tầng lớp vua chúa
**Thư phi Diệp Hách Lặc thị** (chữ Hán: 舒妃叶赫勒氏, 1 tháng 6 năm 1728 - 30 tháng 5 năm 1777), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Cao Tông Càn Long
**Thứ phi Hoàn Nhan thị** (chữ Hán: 恕妃完颜氏, ? - khoảng năm 1790), là Trắc Phúc tấn đầu tiên của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế khi ông còn là Hoàng tử. ## Thân
**Thu phí điện tử** (hay thu phí tự động không dừng, , viết tắt là ETC) là một hệ thống không dây để tự động thu phí sử dụng hoặc phí đối với các phương
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Subic%E2%80%93Clark%E2%80%93Tarlac_Expressway_Toll_Plaza_-_Tarlac_Barrier_9.jpg|nhỏ|Một chiếc ô tô dừng tại trạm thu phí trên Đường cao tốc Subic–Clark–Tarlac. **Trạm thu phí** là một địa điểm được đặt dọc theo một con đường thu phí được sử dụng với mục
Ngày 24/5, UBND tỉnh An Giang đã đồng ý chủ trương không thu phí trong thời gian diễn ra Lễ hội Vía Bà Chúa Xứ núi Sam năm 2024 theo đề xuất của Ban Quản
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Vinh phi Mã Giai thị** (chữ Hán: 荣妃马佳氏; 1652- 6 tháng 3, năm 1727), là một trong những phi tần vào hầu sớm nhất Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Thân thế ### Nhập
**Dung phi Hòa Trác thị** (chữ Hán: 容妃和卓氏; 11 tháng 10, năm 1734 - 24 tháng 5, năm 1788), hoặc **Hoắc Trác thị** (霍卓氏), người Duy Ngô Nhĩ, nổi tiếng là phi tần người Hồi
**Kiểm thử phần mềm** (tiếng Anh: **Software testing**) là một cuộc kiểm tra được tiến hành để cung cấp cho các bên liên quan thông tin về chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ
**Ôn Hi Quý phi** (chữ Hán: 溫僖貴妃; ? – 19 tháng 12 năm 1694), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, Nữu Hỗ Lộc thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế và
**Tuyên phi Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 宣妃博爾濟吉特氏; ? - 1736), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Bát
**Thuận Ý Mật phi** (chữ Hán: 顺懿密妃; Thập niên 1660 - 16 tháng 10 năm 1744), Vương thị (王氏), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Thuận
**Định phi Vạn Lưu Ha thị** (chữ Hán: 定妃万琉哈氏; 1661 - 24 tháng 5, năm 1757), cũng gọi Ngõa Lưu Cáp thị (瓦琉哈氏), là một phi tần của Thánh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ##
**Hoa phi Hầu Giai thị** (chữ Hán: 华妃侯佳氏, ? - 1804), cũng gọi **Hầu thị** (侯氏), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Đế trong lịch sử Trung Quốc. Bà là một
**Ninh Khác phi** (chữ Hán: 寧愨妃; ? - 1694), Đổng Ngạc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Thân thế Ninh Khác phi xuất thân từ dòng họ
**Thuần Dụ Cần phi** (chữ Hán: 純裕勤妃; ? - 1754), họ Trần, người Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Thuần Dụ Cần
**Thành phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 成妃戴佳氏; ? - 1740), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Thành phi Đới Giai thị, cũng gọi [**Đạt Giáp thị**;
**Huệ phi Na Lạp thị** (chữ Hán: 惠妃那拉氏; ? - 7 tháng 4 năm 1732), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, cũng gọi **Nạp Lạt thị** (纳喇氏), là một trong những phi tần đầu tiên của
**Đôn Di Hoàng quý phi** (chữ Hán: 惇怡皇貴妃; 16 tháng 10, năm 1683 - 14 tháng 3, năm 1768), Qua Nhĩ Giai thị (瓜尔佳氏) , Mãn Châu Tương Bạch Kỳ là một phi tần của
**Khác Huệ Hoàng quý phi** (chữ Hán: 愨惠皇貴妃; 1668 - 1743), Đông Giai thị, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế và là em gái của Hiếu Ý Nhân Hoàng
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
**Tín phi Lưu Giai thị** (chữ Hán: 信妃刘佳氏, ? - 26 tháng 11 năm 1822), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế
**Trang phi Vương Giai thị** (chữ Hán: 莊妃王佳氏; ? - 1811), là một phi tần của Thanh Nhân Tông Gia Khánh Hoàng đế trong lịch sử Trung Quốc. Tuy không có con cái, nhưng từ
**Đoan Thuận phi** (chữ Hán: 端順妃; ? - 1709), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Hoàng đế. ## Tiểu sử Đoan Thuận phi xuất thân
**Cung Tĩnh phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 恭靖妃博尔济吉特氏; ? - 1689) là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế. ## Tiểu sử Cung Tĩnh phi xuất thân từ
**Thứ phi Trần thị** (chữ Hán: 庶妃陈氏, ? - 1690), là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Cuộc đời Sử sách không ghi năm sinh
**Đường cao tốc vành đai 1 vùng thủ đô** (Tiếng Hàn: 수도권제1순환고속도로, _Sudogwon Je1sunhwan Gosokdoro;_ Hanja_:_ 首都圈第一循環高速道路) hay **Đường cao tốc số 100** (Tiếng Hàn: 고속국도 제100호선) là một đường cao tốc, đường vành đai
**Thục Huệ phi** (chữ Hán: 淑惠妃, ? - 1713), Bát Nhĩ Tề Cát Đặc thị, là phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị hoàng đế. Bà là em gái của Hiếu Huệ Chương Hoàng
**Thọ Khang Thái phi** (chữ Hán: 壽康太妃; ? - 1665), Khoa Nhĩ Thấm Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, trong một thời gian dài cũng được gọi là **Nhân Thọ cung Thái Tổ phi** (仁壽宮太祖妃),
**Khang Huệ Thục phi** (chữ Hán: 康惠淑妃), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tương truyền có tên **Ba Đặc Mã Tảo** (巴特瑪璪), trước là thiếp của Lâm Đan Hãn, sau trở thành phi tần của
**Điệu phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 悼妃博尔济吉特氏, ? - 1658), là một phi tần của Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế trong lịch sử Trung Quốc. ## Thân thế Sử sách
**Sào Lạt vương phi Dương thị** (chữ Hán: 巢剌王妃楊氏), không rõ tên, nguyên từng là Vương phi của Tề vương, cải Sào Lạt vương Lý Nguyên Cát, rồi trở thành một Thứ phi không chính
**Minh Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 明慈皇太妃; ?– 1365), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Anh Tư Phu nhân** (英姿夫人) hay **Anh Tư Nguyên phi** (英姿元妃), là một cung
**Đôn Từ Hoàng thái phi** (chữ Hán: 惇慈皇太妃; ? – 1347), người họ Lê, không rõ tên húy, còn được gọi là **Quang Hiến Thần phi** (光憲宸妃), là một thứ phi của vua Trần Minh
**Thành Mục Quý phi** (chữ Hán: 成穆貴妃; 1343 – 1374), họ Tôn, là một phi tần của Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương, hoàng đế đầu tiên của nhà Minh. ## Tiểu sử Tôn Quý
Dưới đây là **danh sách nhân vật trong Thủy thủ Mặt Trăng**. ## Nhân vật chính #### Thủy thủ Mặt Trăng là một chiến binh thủy thủ của tình yêu và công lý Sailor Moon.
**Đường cao tốc Gyeongin thứ hai** (Tiếng Hàn: 제2경인고속도로, Je-I(2) Gyeongin Gosok Doro) là đường cao tốc ở Hàn Quốc, nối Incheon với Anyang. Nó có tên là đường cao tốc số 110 và có
**Thư viện số** hay **thư viện trực tuyến** là thư viện mà ở đó các bộ sưu tập các văn bản, tài liệu hình ảnh, tài liệu âm thanh, tài liệu video được lưu trữ
**Đường cao tốc vành đai 2 vùng thủ đô** (**Đường cao tốc 400**) (Tiếng Hàn: 수도권제2순환고속도로, Romaja: Sodogwon Je2sunhwan Gosokdoro, Hanja: 首都圈第二循環高速道路) hay **Đường cao tốc số 400** (Tiếng Hàn: 고속국도 제400호선) là một đường
thumb|right|Cổng AFC từng được sử dụng tại [[Ga Southern Cross thuộc hệ thống AFC Metcard của thành phố Melbourne]] **Hệ thống thu soát vé tự động** ( – **AFC**) là hệ thống nhiều thành phần
**Nhạc Phi** (24 tháng 3 năm 1103 – 28 tháng 1 năm 1142) là nhà quân sự nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, danh tướng chống quân Kim thời Nam Tống. Trước sau tổng cộng
phải|Hình ảnh của châu Phi chụp từ vệ tinh **Châu Phi** hay **Phi châu** (_l'Afrique_, _Africa_) là châu lục đứng thứ hai trên thế giới về dân số (sau châu Á), thứ ba về diện
nhỏ|phải|Một người béo phì **Béo phì** là một tình trạng bệnh lý, đôi khi được xem là một căn bệnh, trong đó mô mỡ trong cơ thể đã tích tụ đến mức có thể gây
**Nam Phi** (), quốc hiệu là **Cộng hòa Nam Phi** (Republic of South Africa) là một quốc gia nằm ở mũi phía nam châu Phi, giáp Namibia, Botswana, Zimbabwe, Mozambique, Eswatini, và bao quanh toàn
**Dương Quý phi** (chữ Hán: 楊貴妃, 719 – 756), còn gọi là **Dương Ngọc Hoàn** (楊玉環) hay **Dương Thái Chân** (楊太真), là một phi tần rất được sủng ái của Đường Huyền Tông Lý Long
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Colonial_Africa_1913_map.svg|nhỏ|300x300px|Bản đồ các thuộc địa châu Phi của các đế quốc châu Âu vào năm 1913 (Bỉ (vàng), Anh (hồng da cam), Pháp (xanh lam), Đức (ngọc lam), Ý (xanh lục), Bồ Đào Nha (tím)
nhỏ|Lính Úc dùng súng máy tại trận địa gần [[Wewak tháng 6 năm 1945]] Sau khi Đức Quốc xã xâm lăng Ba Lan, chính phủ Úc tuyên chiến với Đức ngày 3 tháng 9 năm
**Đôn Túc Hoàng quý phi** (chữ Hán: 敦肅皇貴妃; Khoảng 1695 - 27 tháng 12, năm 1725), Niên thị (年氏), Hán Quân Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thế