✨Huệ phi (Khang Hy)

Huệ phi (Khang Hy)

Huệ phi Na Lạp thị (chữ Hán: 惠妃那拉氏; ? - 7 tháng 4 năm 1732), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, cũng gọi Nạp Lạt thị (纳喇氏), là một trong những phi tần đầu tiên của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế.

Thân thế

Xuất thân dòng họ Diệp Hách Na Lạp thị hiển hách thuộc Mãn Châu Chính Hoàng Kỳ, bà là con gái Chính ngũ phẩm Lang trung Sách Nhĩ Hòa (索爾和). Sách Nhĩ Hòa đương khi nhậm Thị lang bộ Lại kiêm thêm Tá lĩnh (佐领), thế tước truyền đời "Nhất đẳng Nam kiêm Nhất Vân kỵ úy" (一等男兼一云骑尉).

Sách Vinh hiến lục (永宪录) cho rằng, Na Lạp thị cùng đương triều danh thần Nạp Lan Minh Châu là anh em, thực ra có chút nhầm lẫn. Vì cha của Minh Châu tên là Ngưu Lục ngạch chân Ni Nhã Cáp (雅哈率), con trai khác của Kim Đài Cát, nên xét tính ra thì Minh Châu cùng Tác Nhĩ Hòa là hai anh em họ cùng ông nội (Kim Đài Cát), và Na Lạp thị phải gọi Minh Châu bằng chú. Con trai của Minh Châu là Nạp Lan Tính Đức, cũng là một danh sĩ thời Khang Hi tại vị. Không rõ thời gian Na Lạp thị chính thức nhập cung.

Đại Thanh tần phi

Năm Khang Hi thứ 9 (1670), Na Lạp thị sinh ra Hoàng tử Thừa Khánh (承庆), sang năm thì chết yểu. Năm Khang Hi thứ 11 (1672), Na Lạp thị lại tiếp tục hạ sinh Hoàng trưởng tử Dận Thì, là người con lớn nhất khi trưởng thành của Khang Hi Đế. Lúc này hậu cung nhà Thanh chưa có phân định rõ, hồ sơ đương thời không ghi lại bất kì tư liệu tấn phong nào trước khi Khang Hi Đế chế định ra hậu cung giai phẩm vào năm thứ 16.

Năm Khang Hi thứ 16 (1677), sách thăng Tần vị, phong hiệu Huệ tần (惠嬪). Theo cách Khang Hi Đế gửi thư cho 4 vị Phi, có lẽ Huệ tần cư ngụ Diên Hi cung (延禧宮). Trong cung, sau cái chết của Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, Na Lạp thị gần như trở thành người đứng đầu. Suốt nhiều năm sau, bà cùng Khang Hi Đế lo việc nội đình, cũng thập phần tâm đắc, cùng trải qua 8 năm Loạn tam phiên căng thẳng.

Năm Khang Hi thứ 20 (1681), tháng 12, Khang Hi Đế đại phong hậu cung, lấy Đại học sĩ Lý Úy (李霨) càm Tiết, sách phong Huệ tần Na Lạp thị trở thành Huệ phi (惠妃).

Sách văn viết:

Khi ấy, Na Lạp thị là người đứng đầu Tứ phi, trên: Nghi phi Quách Lạc La thị, Đức phi Ô Nhã thị và Vinh phi Mã Giai thị. Theo ý chỉ của Hiếu Trang Văn Hoàng hậu, Huệ phi cùng Vinh phi giữ bổn phận chủ trì mọi việc trong nội đình. Do địa vị của mẹ, cũng như thân phận Trưởng tử, Dận Thì có ý tranh đoạt với Thái tử Dận Nhưng, đứa con do Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Hách Xá Lý thị sinh ra.

Khang Hi Đế giá băng, Huệ phi từng được Liêm Thân vương Dận Tự phụng dưỡng ở phủ đệ, do khi vừa được Lương phi sinh ra thì Khang Hi Đế đem Dận Tự cho Huệ phi nuôi dưỡng. Sau Dận Tự bị tội, Huệ phi lại trở về trong cung sống. Năm Ung Chính thứ 10 (1732), ngày 7 tháng 4, Huệ phi qua đời, không rõ bao nhiêu tuổi, có lẽ khoảng trên dưới 70 tuổi. Tháng 9 năm đó, bà được nhập Cảnh lăng Phi viên tẩm.

Tương quan

Sau khi Ngao Bái bị diệt, Na Lạp thị gia tộc hưng thịnh. Tuy không rõ bà nhập cung khi nào, nhưng đều ghi sơ lược bà là Thứ phi, không rõ phong hiệu. Khi Khang Hi Đế phong Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu Nữu Hỗ Lộc thị làm Kế Hậu, Na Lạp thị cùng Mã Giai thị ở trong cung phụ trợ Kế Hậu việc nội cung, là do đích thân Hiếu Trang Thái hoàng Thái hậu cho phép, địa vị không thể xem thường.

Theo suy đoán, Huệ phi đương thời rất có khả năng trú tại Diên Hi cung (延禧宮), mà trong thư từ Khang Hi Đế gửi đến Diên Hi cung phi (延禧宮妃), Hoàng đế lệnh Diên Hi cung phi hỗ trợ cung cấp quần áo cho các Thường tại trẻ tuổi ở trong cung, như vậy có thể phán đoán ra Huệ phi địa vị trong cung căn bản là đủ tư cách chăm lo các phi tần thấp, nhìn ra được địa vị của bà không hề thấp. Đến đây phần nhiều cũng chỉ là suy đoán, nhưng Huệ phi có danh nghĩa là mẹ đẻ của Hoàng trưởng tử, cộng thêm tư lịch là một trong những tần phi vào cung sớm nhất của Khang Hi Đế, phán đoán này rất có cơ sở.

Năm Khang Hi thứ 47 (1708), Dận Thì bị hoạch tội, suýt nữa bị giết chết. Huệ phi Na Lạp thị dâng thư nói rằng Dận Thì từ nhỏ không hiếu thuận, Khang Hi Đế thuận nước đẩy thuyền, đưa Dận Thì đến chỗ mẫu thân mình bế môn tự trách, từ đó không phải chịu tội chết. Huệ phi đã tuyệt đỉnh thông minh, cứu lấy con mình mà cũng bảo toàn địa vị của mình không bị liên lụy như thế.

Tuy nhiên, chú trong tộc của Huệ phi là Nạp Lan Minh Châu từ năm 1688 đã bị Khang Hi Đế chán ghét, tuy được phục hồi quan chức nhưng về sau cũng dần không được trọng dụng. Khi xảy ra sự kiện Dận Thì, Minh Châu liên lụy, bị khám xét và ốm chết. Thế lực của gia tộc không còn, con trai bị hạch tội tranh chấp vị trí Thái tử, địa vị của Huệ phi lúc đó chỉ còn cố sống sót qua ngày.

Hậu cung bài tự

Căn cứ 《Khâm định đại thanh hội điển tắc lệ》cuốn 42, hậu phi bài vị trình tự ghi lại:

  • Ôn Hi Quý phi
  • Tuệ phi, Huệ phi, Nghi phi, Vinh phi, Bình phi, Lương phi, Tuyên phi, Thành phi, Thuận Ý Mật phi, Thuần Dụ Cần phi, Định phi.

Văn hóa đại chúng

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Huệ phi Na Lạp thị** (chữ Hán: 惠妃那拉氏; ? - 7 tháng 4 năm 1732), Mãn Châu Chính Hoàng kỳ, cũng gọi **Nạp Lạt thị** (纳喇氏), là một trong những phi tần đầu tiên của
**Tuyên phi Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị** (chữ Hán: 宣妃博爾濟吉特氏; ? - 1736), Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. ## Thân thế Bát
**Lương phi Vệ thị** (chữ Hán: 良妃衛氏; 1661 - 29 tháng 12 năm 1711), nguyên Giác Nhĩ Sát thị (覺爾察氏), Chính Hoàng kỳ Bao y, là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi
**Thành phi Đới Giai thị** (chữ Hán: 成妃戴佳氏; ? - 1740), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Thành phi Đới Giai thị, cũng gọi [**Đạt Giáp thị**;
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Vinh phi Mã Giai thị** (chữ Hán: 荣妃马佳氏; 1652- 6 tháng 3, năm 1727), là một trong những phi tần vào hầu sớm nhất Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Thân thế ### Nhập
**Nghi phi Quách Lạc La thị** (chữ Hán: 宜妃郭络罗氏, ? - 1733), Mãn Châu Tương Hoàng kỳ, là một phi tần rất được sủng ái của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Hoàng đế. Bà là
**Hiếu Chiêu Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭皇后; 1601 - 12 tháng 7 năm 1661), hay còn gọi **Đoàn Quý phi** (段貴妃) hoặc **Trinh Thục Từ Tĩnh Huệ phi** (貞淑慈靜惠妃), là Chánh phi của chúa Nguyễn
**Thanh Thánh Tổ** (chữ Hán: 清聖祖; 4 tháng 5 năm 165420 tháng 12 năm 1722), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ ba của nhà Thanh và cũng
thumb|Ảnh chụp Hoàng thành Huế ngày [[11 tháng 9, năm 1932.]] **Hoàng thành Huế** (chữ Hán: 皇城) hay còn được gọi là **Đại Nội** (大內), là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế,
Đại Cung môn nhìn từ điện Cần Chánh. Vua Khải Định đang tiếp các sứ bộ nước ngoài. **Khu vực Tử Cấm thành**
6. [[Đại Cung môn 7. Tả vu và Hữu vu 8. Điện
**Hy tần Hách Xá Lý thị** (chữ Hán: 僖嫔赫舍里氏, ? - 11 tháng 9 năm 1702), là một phi tần của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. ## Tiểu sử Hy tần, xuất thân từ
**Điện Cần Chánh** (chữ Hán: 勤政殿) trong Tử Cấm thành (Huế), là nơi vua thiết triều, thường tiếp sứ bộ ngoại giao, tổ chức yến tiệc của hoàng gia và triều đình của triều Nguyễn.
**Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝儀純皇后, ; 23 tháng 10, năm 1727 – 28 tháng 2 năm 1775), còn được biết đến dưới thụy hiệu **Lệnh Ý Hoàng quý phi** (令懿皇貴妃), là phi
**Vinh An Hoàng quý phi Diêm thị** (chữ Hán: 榮安皇貴妃阎氏, ? - 1541), là một phi tần của Minh Thế Tông Gia Tĩnh Hoàng đế. Bà là Hoàng quý phi đầu tiên của Minh Thế
**Hy Lạp**, quốc hiệu là **Cộng hòa Hy Lạp**, là một quốc gia nằm ở phía nam bán đảo Balkan, giáp với Albania, Bắc Macedonia và Bulgaria về phía bắc, Thổ Nhĩ Kỳ và biển
**Điện Càn Thành** còn có tên là **điện Trung Hòa**, đây là tư cung của vua triều Nguyễn nằm trong Tử Cấm thành (Huế). Công trình này được xây dựng năm Gia Long thứ 10
**Trần Việt** (sinh năm 1946) là một phi công Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên Phó Tư lệnh Quân chủng Phòng không – Không quân, hàm Thiếu tướng, danh hiệu Anh hùng Lực lượng
**Làng Thanh Lương** được hình thành vào khoảng từ cuối thế kỷ XIV và đến đầu thế kỷ XV. Đầu tiên Làng được đặt tên là làng Thanh Kệ, cho đến khi chúa Nguyễn về
**Kiều Quý phi** (chữ Hán: 喬貴妃; ? - ?) là một phi tần rất được sủng ái của Tống Huy Tông Triệu Cát. Bà nổi tiếng là tỷ muội tình thâm, vào sinh ra tử
**Tuyên Phi** (_chữ Hán_ 宣妃) là tước hiệu của một số vị phi tần trong lịch sử khu vực Á Đông thời phong kiến. ## Danh sách *Tuyên phi Bác Nhĩ Tể Cát Đặc thị,
**Đặng Siêu** (sinh ngày 8 tháng 2 năm 1979) là một nam diễn viên, đạo diễn và nhà sản xuất phim người Trung Quốc, tốt nghiệp khoa diễn xuất Học viện Hý kịch Trung ương
**Minh Hy Tông** (chữ Hán: 明熹宗; 23 tháng 12 năm 1605 – 30 tháng 9 năm 1627), là vị hoàng đế thứ 16 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc, trị vì từ năm
**Ngũ Phụng Tề Phi** (_五鳳齊飛, Năm con chim phượng hoàng cùng bay_) là một danh xưng dùng để chỉ 5 người đồng hương cùng đỗ đại khoa trong cùng một khoa thi. Ở Việt Nam,
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Cao Ly Huệ Tông** (Hangul: 고려 혜종, Hanja: 高麗 恵宗; 912 – 945), trị vì từ năm 943 – 945. Ông là vị quốc vương thứ hai của triều đại Cao Ly. Ông là người
**Phạm Phi Nhung** (10 tháng 4 năm 1970 – 28 tháng 9 năm 2021), ### Sự nghiệp phát triển Vào tháng 10 năm 1989, Phi Nhung được sang Mỹ theo diện con lai và cư
**Thiên Hậu Thánh Mẫu** () hay **bà Thiên Hậu**, còn gọi là **Ma Tổ** (媽祖), **Mẫu Tổ** (母祖), hay là **Thiên Thượng Thánh Mẫu** (天上聖母) hoặc **Thiên Hậu Nguyên quân** (天后元君); là một vị thần
thumb|[[Thần Trinh Vương hậu.]] **Nội mệnh phụ** (chữ Hán: 內命婦; Hangul: 내명부) là từ chỉ Hậu cung ở Triều Tiên, gồm Vương phi và các Hậu cung tần ngự - những người có nhiệm vụ
**Thanh Thế Tổ** (chữ Hán: 清世祖; 15 tháng 3 năm 1638 – 5 tháng 2 năm 1661), họ Ái Tân Giác La, húy **Phúc Lâm**, là hoàng đế thứ hai của nhà Thanh và là hoàng
**Đồng Khánh Đế** (chữ Hán: 同慶 19 tháng 2 năm 1864 – 28 tháng 1 năm 1889), tên húy là **Nguyễn Phúc Ưng Thị** (阮福膺豉) và **Nguyễn Phúc Ưng Đường** (阮福膺禟 ), lên ngôi lấy
**Tôn Thất Thuyết** (chữ Hán: 尊室説; 1839 – 1913), biểu tự **Đàm Phu** (談夫), là quan phụ chính đại thần, nhiếp chính dưới triều Dục Đức, Hiệp Hòa, Kiến Phúc và Hàm Nghi của triều
**Thanh Đông lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm ở Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc
**Bảo Đại** (chữ Hán: , 22 tháng 10 năm 1913 – 31 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc (Phước) Vĩnh Thụy** (), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị
**Sự kiện Tết Mậu Thân** (sách báo Việt Nam thường gọi là **_Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968_**) là cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy giành
**Thanh Thế Tông** (chữ Hán: 清世宗, 13 tháng 12 năm 1678 – 8 tháng 10 năm 1735), pháp hiệu **Phá Trần Cư Sĩ**, **Viên Minh Cư Sĩ**, Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế**
**Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝昭仁皇后, , 1653 - 18 tháng 3 năm 1678), là Hoàng hậu thứ hai của Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế. Với tư cách là con gái của
**_Lộc Đỉnh ký_** (tiếng Trung: 鹿鼎記) là bộ phim truyền hình Trung Quốc do Trương Kỷ Trung và Hoa Nghị huynh đệ sản xuất, chuyển thể từ tiểu thuyết cùng tên của nhà văn Kim
**Hồ Chí Minh** (chữ Nho: ; 19 tháng 5 năm 1890 – 2 tháng 9 năm 1969), tên khai sinh là **Nguyễn Sinh Cung** (chữ Nho: ), còn được gọi phổ biến tại Việt Nam
**Trịnh Thành Công** () (2 tháng 8 năm 1624 - 23 tháng 6 năm 1662), nguyên huý là **Sâm**, tự là **Minh Nghiễm **hay** Đại Mộc**, hay còn được biết đến với tên gọi khác
**Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận** (17 tháng 4 năm 1928 – 16 tháng 9 năm 2002) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm trách cương vị
**_Thư kiếm ân cừu lục_** () hay **_Thư kiếm ân thù lục_** là một tiểu thuyết võ hiệp của nhà văn Kim Dung, được đăng trên _Tân vãn báo_ của Hồng Kông từ ngày 8
**Minh Thế Tông** (chữ Hán: 明世宗, 16 tháng 9, 1507 - 23 tháng 1, 1567), là vị Hoàng đế thứ 12 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị tổng cộng 45
**Trịnh Căn** (chữ Hán: 鄭根, 18 tháng 7 năm 1633 Lúc nhỏ, Trịnh Căn chưa được xem là một ứng cử viên cho việc kế thừa ngôi Chúa, bởi bác cả của ông là Sùng
**Thi Lang** (, 1621 – 1696) tự là **Tôn Hầu**, hiệu là **Trác Công**, người thôn Nha Khẩu trấn Long Hồ huyện Tấn Giang tỉnh Phúc Kiến Trung Quốc, là danh tướng thời kỳ cuối
**Trung Quốc** hiện là quốc gia có dân số đông thứ hai trên thế giới. Từ thời Chu Tuyên Vương, đã có điều tra nhân khẩu tại Trung Quốc, có thống kê nhân khẩu chi
**Hình tượng con ngựa trong nghệ thuật** là hình ảnh của con ngựa trong nghệ thuật, ngựa là chủ đề khá quen thuộc trong văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, chúng
**Minh Hiến Tông** (chữ Hán: 明憲宗, 9 tháng 12, 1446 – 19 tháng 9, 1487), là vị Hoàng đế thứ 9 của nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cai trị từ năm 1464
**Thanh Cao Tông** (chữ Hán: 清高宗, , 25 tháng 9 năm 1711 – 7 tháng 2 năm 1799), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng Đế** (文殊皇帝), là Hoàng đế thứ sáu của Nhà Thanh
**Thanh Tây lăng** (; ) là một quần thể lăng mộ triều đại nhà Thanh nằm cách về phía tây nam Bắc Kinh, thuộc Huyện Dịch, Hà Bắc. Đây có khu lăng tẩm kết hợp