✨Ung Chính
Thanh Thế Tông (chữ Hán: 清世宗, 13 tháng 12 năm 1678 – 8 tháng 10 năm 1735), pháp hiệu Phá Trần Cư Sĩ, Viên Minh Cư Sĩ, Tây Tạng tôn vị Văn Thù Hoàng đế (文殊皇帝), là vị hoàng đế thứ năm của nhà Thanh (Trung Quốc), trị vì từ năm 1722 đến 1735. Ông dùng niên hiệu Ung Chính (雍正) trong suốt thời gian 13 năm trị vì, nên các sử gia thường gọi ông là Ung Chính Đế (雍正帝).
Là một vị hoàng đế siêng năng, cần kiệm và chống tham nhũng quyết liệt, mục tiêu của Ung Chính là tạo ra một triều đình hiệu quả với chi phí thấp nhất. Các chính sách của ông đã mở đường cho sự thịnh trị gần 150 năm tiếp theo của Đại Thanh.
Hoàng tử Dận Chân đã cùng cha mình vi hành nhiều lần ở các vùng, tỉnh xung quanh kinh thành Bắc Kinh, cũng như về phía Nam xa xôi. Khi trưởng thành, ông được cử làm Chủ soái của Chính Hồng kỳ trong suốt cuộc chiến tranh lần thứ 2 giữa Đại Thanh với Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ.
Năm Khang Hi thứ 35 (1696), Dận Chân theo Khang Hi chinh phạt Cát Nhĩ Đan, chưởng quản Chính Hồng kỳ đại doanh . Chiến dịch lần này Dận Chân không trực tiếp tham gia, nhưng ông rất quan tâm đến trận chiến. Dận Chân còn làm "Lan cư tư sơn đại duyệt" cùng "Công thành hồi loan cung tụng nhị thủ" để tán dương thành tựu dụng binh của Phụ hoàng. Không những vậy, Dận Chân còn tới Tuân Hóa tạm an phụng điện tế tự Hiếu Trang Văn Hoàng hậu.
Năm Khang Hi thứ 37 (1698), Tứ a ca Dận Chân được phong tước vị [Đa La Bối lặc; 多羅貝勒]. Năm thứ 39 (1699), năm 23 tuổi, Dận Chân theo Khang Hi thị sát Vĩnh Định Hà, kiểm nghiệm chất lượng công trình. Năm 25 tuổi, Dận Chân thị tòng Phụ hoàng tuần du Ngũ Đài Sơn. 1 năm sau lại thị tòng nam tuần Giang Chiết.
Năm Khang Hi thứ 43 (1704), sông Dương Tử và sông Hoàng Hà gây ra một trong những trận lũ lớn nhất trong lịch sử Trung Quốc. Kinh tế và đời sống của nhân dân xung quanh các vùng này bị đe dọa nghiêm trọng. Dận Chân được Khang Hi cử đến với tư cách là khâm sai đại thần của Hoàng đế cùng với Hoàng thập tam tử là Dận Tường để giúp đỡ các nạn dân vùng phía Nam Trung Quốc. Quốc khố lúc này đang cạn kiệt do các khoản nợ không trả từ các quan lại và quý tộc, do đó triều đình không đủ tiền để đối phó với nạn lũ. Dận Chân đã phải thực hiện chính sách thu gom ngân quỹ từ các thương gia giàu có ở phương Nam. Những nỗ lực này của ông bảo đảm tiền cứu tế được phân bố và các nạn dân không bị đói.
Năm Khang Hi thứ 46 (1708), Khang Hi Đế ban Viên Minh Viên cho Dận Chân. Tháng 11, Dận Chân cung thỉnh Phụ hoàng đến Viên Minh Viên dự yến tiệc. Từ 1707 đến 1722, Khang Hi Đế đến Viên Minh Viên tổng cộng 12 lần.
Lên ngôi
Tranh đoạt Trữ vị
thumb|Dận Chân khi còn là Ung Thân vương. Năm Khang Hi thứ 47 (1708), Khang Hi Đế lần đầu phế truất Thái tử Dận Nhưng. Trong quá trình đề cử tân Thái tử, Dận Chân kiên trì kiến nghị phục vị cho Dận Nhưng, đồng thời cùng Hoàng bát tử Dận Tự có quan hệ tốt đẹp.
Năm Khang Hi thứ 48 (1709), Khang Hi Đế phục lập Dận Nhưng trở lại làm Hoàng thái tử, cùng năm đó Hoàng tứ tử Dận Chân được chính thức phong tước hiệu Ung Thân vương (雍親王). Bắt đầu từ đây, các Hoàng tử bắt đầu kéo bè cánh, tranh đoạt lập mưu với Trữ vị bắt đầu gia tăng.
Hoàng thái tử Dận Nhưng sau khi được phục vị, quyết định kéo bè phái nhằm củng cố vị trí cho mình, điều này khiến Khang Hi Đế lần nữa thất vọng, mà quyết định phế truất Thái tử vào năm thứ 50 (1711), và hạ lệnh bất kì ai khuyên phục lập Dận Nhưng đều sẽ bị trị tội.
Điều này đã dẫn đến sự phân chia trong triều đình nhằm tranh giành vị trí Thái tử bị bỏ trống, sự chia rẽ giữa những người ủng hộ Hoàng tam tử Dận Chỉ, Dận Chân, Hoàng bát tử Dận Tự và Hoàng thập tứ tử Dận Trinh (em ruột của Dận Chân). Trong số các hoàng tử trên, Dận Tự được sự ủng hộ nhiều nhất từ các quan lại. Dận Tự cùng Dận Trinh "Hư hiền hạ sĩ", liên lạc nhân sĩ khắp nơi, rất có ý đồ. Vì điều này mà Dận Tự đã bị Khang Hi trách cứ. Hoàng thập tứ tử Dận Trinh vào năm Khang Hi thứ 57 (1718) được phong "Phủ Viễn Đại tướng quân vương", xuất chinh Tây Bắc, chỉ huy hai đạo quân Thanh ổn định thế cụ Tây Tạng, danh tiếng càng ngày càng lên cao, có khả năng tranh đoạt Trữ vị. Hoàng tam tử Thành Thân vương Dận Chỉ vâng mệnh vỡ lòng Dưỡng Trai quá, xung quanh tụ tập một đám người có học thức. Ông cũng có dã tâm tranh đoạt Trữ vị, đến nỗi sau khi Dận Nhưng bị phế truất, ông luôn tự cho mình là Trữ quân tiếp theo. Khi Khang Hi mất vào tháng 11 năm 1722, việc phân chia quyền vị ngai vàng chỉ còn lại ba Hoàng tử, sau khi Dận Tự chuyển sang ủng hộ Hoàng thập tứ tử Dận Trinh, đó là: Dận Chỉ, Dận Chân và Dận Trinh.
Dận Chân giỏi về trị quốc, hiểu được giấu tài. Ông tôn sùng Phật giáo, tự xưng "Thiên hạ đệ nhất nhàn nhân", giữ hòa khí với các huynh đệ, bên cạnh đó lại liên kết chặt chẽ với những người có thế lực như Long Khoa Đa và Niên Canh Nghiêu, thu phục nhân tâm. Đồng thời, ông còn chú ý thể hiện sự hiếu thuận đối với Khang Hi Đế, dâng lên Bản đồ Tây Tạng do chính ông vẽ, giành được sự tin tưởng của Khang Hi.
Năm Khang Hi thứ 60 (1721), Dận Chân nhân kỉ niệm 60 năm đăng cơ của Khang Hi Đế, hướng Thịnh Kinh tế cáo tổ lăng. Hồi kinh tham gia Cống sĩ thi hội bài thi phúc tra sự vụ, Đông chí tuân mệnh đại Khang Hi Đế nam giao tế thiên. Năm sau, thanh tra kinh thành, liên kết hai thương khố, lại vân mệnh Đông chí tế thiên. Việc này đối với Dận Chân rất trọng đại, một là bởi vì ông nhiều lần tùy tùng tuần du, ra ngoài làm thay chính vụ, khiến cho ông có cơ hội hiểu biết các nơi kinh tế sản vật, sông núi thủy lợi, phong tục dân gian, tôn giáo tín ngưỡng, lấy được dân sự trực tiếp tư liệu, hai là quan sát Khang Hi Đế xử lý chính sự, khảo tra địa phương hành chính cùng lại trị, rèn luyện xử lý chính sự năng lực. Hai phương diện này đối với ngày sau Dận Chân xử lý quốc sự đều có ý nghĩa thực tế rất lớn.
Lên ngôi chính thống
Năm Khang Hi thứ 61 (1722), con trai thứ tư của Dận Chân là Hoằng Lịch tròn 12 tuổi, Khang Hi Đế đến Viên Minh Viên dự tiệc dùng thiện. Sau khi Càn Long đăng cơ, "Cao Tông Thuần Hoàng đế" có ghi chép lại, Khang Hi Đế vì Hoằng Lịch mà đến Viên Minh Viên dự tiệc, còn khen sinh mẫu Hoằng Lịch là người có phúc. Nhưng trong "Thánh Tổ Nhân Hoàng đế thực lục" lại không có ghi chép gì về việc Khang Hi Đế yêu thích mẹ con Hoằng Lịch hay sách phong Thế tử, Phúc tấn gì để ban thưởng.
Ngày 13 tháng 11 (tức ngày 20 tháng 12 dương lịch), Khang Hi Đế băng hà ở Sướng Xuân viên.
Ngày 20 tháng 11 (tức ngày 27 tháng 12 dương lịch), theo di chiếu, Hoàng tứ tử Ung Thân vương Dận Chân kế vị. Bắt đầu sang năm (1723) dùng niên hiệu là Ung Chính (雍正). Chữ [Ung Chính], xuất phát từ chữ "Ung", nghĩa là "hòa thuận"; và chữ "Chính", nghĩa là "ngay thẳng" hay "chính thống".
Ngay lập tức sau khi lên ngôi, Ung Chính Đế đã chọn ra các quân cơ đại thần vào Quân Cơ viện, bao gồm: Hoàng bát tử Dận Tự, Hoàng thập tam tử Dận Tường, Trương Đình Ngọc, Mã Vệ và Long Khoa Đa. Dận Tự được phong làm Liêm Thân vương, còn Dận Tường được phong làm Di Thân vương, cả hai đều được giữ những vị trí cao trong triều.
Ung Chính còn đặc biệt đưa Hoằng Quế, Hoằng Hoàn (con trai của Dận Nhưng) và Vĩnh Kính (cháu nội Dận Nhưng) vào cung nuôi dưỡng, nhận làm Dưỡng tử. Đây cũng là sau khi Càn Long Đế lên ngôi chính miệng thừa nhận.
Tranh luận về việc lên ngôi
thumb|Di chiếu của Khang Hi Đế. Hiện nay trong giới Thanh sử tồn tại hai phái. Phái ủng hộ Ung Chính lên ngôi hợp pháp bao gồm các học giả như Phùng Nhĩ Khang, Dương Khải Tiêu, Ngô Tú Lương, Sử Tùng..., trong đó nổi bật nhất là Phùng Nhĩ Khang. Phái ủng hộ Khang Hi định truyền vị cho Hoàng tử Dận Trinh nhưng bị Dận Chân dùng thủ đoạn bất chính để chiếm đoạt bắt đầu từ nhà sử học đặt nền móng cho Thanh sử là Mạnh Sâm, sau đến Hứa Tăng Trọng, Vương Trung Hàn, Đới Dật, Dương Trân... Vào thời điểm Khang Hi Đế qua đời, Hoàng tử thứ 14 là Dận Trinh lúc này là "Phủ Viễn Đại tướng quân" (撫遠大將軍), đang phải chinh chiến ở chiến trường Tây Bắc. Một số nhà sử học cho rằng, việc này là để huấn luyện khả năng cầm quân của Hoàng đế tương lai; một số khác lại cho rằng việc này nhằm bảo đảm chuyện lên ngôi trong hòa bình của Dận Chân. Một thực tế hiện nay được biết đến đó là, lúc đó Dận Chân cũng đã tranh chức vị này với mục tiêu thông qua đó tranh ngôi Thái tử (phế Thái tử Dận Nhưng cũng dâng thư xin chức này), nhưng không thành. Sau khi Dận Trinh đảm nhiệm chức vụ này, mưu sĩ của Ung Thân Vương đã kiến nghị với ông nên chuẩn bị sẵn binh lương ở Đài Loan để sau này cát cứ tạo phản.
Từ khi lên ngôi, Ung Chính thay đổi nhiều lần cách nói về việc những người chứng kiến việc truyền ngôi. Long Khoa Đa được coi là cố mệnh đại thần duy nhất, nhưng sau này đến khi Long bị xử tội, chính Ung Chính lại nói rằng: "Ngày Thánh tổ thăng hà, Long Khoa Đa không có mặt trước ngự tiền, thế mà còn dám bịa đặt chuyện mang chủy thủ đến để phòng bất trắc." Học giả Tần Huy nhận xét, cách nói "tám người thụ mệnh" (Long Khoa Đa và bảy vị hoàng tử) là "hoàn toàn bịa đặt."
Các truyện dân gian cho rằng Ung Chính đã thay đổi di chiếu của vua cha bằng cách thêm dấu vào và sửa đổi kí tự. Tuy nhiên, vấn đề này cơ bản không thành lập, vì như những gì được biết hiện nay, di chiếu được viết sau khi Khang Hi qua đời và người đứng ra soạn là Long Khoa Đa. Kể cả Phùng Nhĩ Khang, học giả hàng đầu ủng hộ Ung Chính, cũng đồng ý điểm này.
Trong bản tóm tắt tiểu sử toàn diện nhất về Hoàng đế Ung Chính của học giả Phùng Nhĩ Khang, tác giả đã nhìn nhận việc kế ngôi của Ung Chính bằng một nhãn quan mới mẻ. Phùng Nhĩ Khang viết rằng vẫn còn một số nghi ngờ từ di chiếu bị thất lạc hay ngày được ban hành, song đa số các luận điểm chứng tỏ rằng Ung Chính đã thành công trong việc lên ngai vàng một cách hợp lẽ, dẫu cho ông cũng đã có sử dụng quân đội trong một số trường hợp cần thiết.
Ngoài ra, Phùng Nhĩ Khang cũng cho rằng:
Ngoài ra, học giả Phùng Nhĩ Khang cho rằng Khang Hi đã phạm một sai lầm to lớn khi để các con của mình lao vào trò chơi chính trị quá nhiều, và đặc biệt là trong hoàn cảnh chiếc ghế Thái tử bị bỏ trống, do đó một cuộc quyết chiến giành ngôi vua, bao gồm cả việc chiếm đoạt nếu có thể, là một kết quả không thể tránh khỏi trong lịch sử phong kiến Trung Hoa. Vì thế, thậm chí sẽ là một sai lầm to lớn hơn nữa khi đánh giá một nhà cai trị đơn giản thông qua cách mà ông ta đạt đến quyền lực. Có một điều chắc chắn là sau này Hoàng đế Ung Chính đã bảo đảm rằng quá trình chuyển giao quyền lực cho người kế vị mình diễn ra thuận lợi, không như trường hợp của chính ông.
Củng cố quyền lực
thumb|Ung Chính Đế đang đọc một quyển sách.
Tiêu diệt các Hoàng tử khác
Do sự lên ngôi của ông có nhiều điều nghi vấn, Ung Chính đã nhận thấy sự đố kỵ và tranh chấp từ các Hoàng tử còn lại.
Dận Thì, Hoàng trưởng tử tiếp tục bị giam cầm tại gia. Dận Nhưng, Phế Thái tử mất 2 năm sau khi Ung Chính Đế lên ngôi, dù việc họ bị giam cầm không phải do Ung Chính mà do Khang Hi Đế. Việc khó khăn nhất chính là phải chia rẽ nhóm của Hoàng tử Dận Tự (bao gồm Dận Tự; Hoàng tử thứ 9 Dận Đường, Hoàng tử thứ 10 Dận Ngã; và các thuộc hạ), và chia cắt Dận Trinh nhằm cắt đứt liên minh này. Dận Tự, người nắm giữ chức Thượng thư Bộ Công, và tước Liêm Thân vương, được theo dõi rất kỹ bởi Ung Chính. Dận Đường được cử tới Thanh Hải để hỗ trợ quân đội, nhưng thực chất là chịu sự cai quản thuộc hạ của Ung Chính là Tướng quân Niên Canh Nghiêu. Dận Ngã bị tước bỏ mọi quyền vị vào tháng 5 năm 1724, và bị đày đi phương bắc tới vùng Nội Mông. Hoàng tử thứ 14 là Dận Trinh, em ruột của Ung Chính, thì bị đày đến canh giữ tẩm lăng của các Tiên hoàng.
Trong những năm đầu tiên dưới sự cai trị của Ung Chính, sự ủng hộ ông đã tăng lên rõ rệt. Dận Tự và Dận Đường, những người từng ủng hộ Dận Trinh lên vị trí ngôi báu, đã bị tước hết mọi quyền vị và bị giam cầm trong ngục cho đến chết vào năm 1727.
Vụ án Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa
Niên Canh Nghiêu là tâm phúc của Ung Chính một thời gian dài trước khi ông bước lên ngai vàng và là anh trai ruột của sủng phi Đôn Túc Hoàng quý phi. Vào năm 1723, khi Ung Chính gọi em của mình, Dận Trinh, quay trở về từ Tây Bắc, ông đã chỉ định Niên đến thay thế vị trí này. Tình hình biên giới Tân Cương lúc này vẫn rất rối ren, do đó ở đây rất cần một viên tướng giỏi. Tuy nhiên, sau một vài cuộc chinh phục thành công, Niên đã bắt đầu tha hóa khi nhận hối lộ để thăng quan tiến chức. Niên nổi tiếng với lối sống vương giả ngang bằng với nhà vua. Nhìn thấy trước viễn cảnh không tốt từ Niên, Ung Chính đã ra một chỉ dụ giáng chức Niên xuống làm tướng quân của Hàng Châu phủ. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục những hành động ngông cuồng, Niên đã nhận được tối hậu thư từ Ung Chính, và sau đó đã phải tự sát bằng thuốc độc vào năm 1726.
Long Khoa Đa (âm Mãn: Longkodo) là thống soái toàn bộ quân đội thành Bắc Kinh vào thời điểm Ung Chính lên ngôi. Sau đó, Long Khoa Đa bắt đầu bị ghét bỏ từ năm 1728 và chết khi bị giam cầm tại gia.
Trị vì
Tôn giáo
Khác với vua cha, Ung Chính tấn công mạnh mẽ vào đạo Thiên Chúa.. Ông cấm đạo cả nước, chỉ trừ Bắc Kinh. Thế là, 300 nhà thờ bị phá.
Ung Chính Đế cho thành lập các ban khâm sai gồm các đại thần từ trung ương hoặc các quan viên địa phương có năng lực đi kiểm tra các tỉnh, huyện. Tra ra quan viên nào có dính líu tham ô thì lập tức cách chức, thay thế bằng một thành viên trong ban khâm sai. Các quan viên bị cách chức thi nhau khai ra những người tiền nhiệm đã làm thâm hụt ngân khố, việc này đã làm hàng trăm quan viên bị cách chức. Thậm chí, những quan viên tuy đã từ nhiệm nhưng bị phát hiện có tham ô trong lúc tại vị cũng bị trừng phạt. Thời đó, tham quan khi bị phát hiện có tham ô thường hay tự sát để bảo toàn cho người nhà vẫn được hưởng phúc lợi, vì theo họ thì "họa không đến người nhà". Nhưng Ung Chính thì quyết tâm chống tham nhũng đến cùng, quan viên tham ô đã tự sát thì nhà vua chẳng những tịch thu tài sản của chúng, mà ông còn bắt người nhà chúng phải làm việc lao dịch cả đời để trả nợ của ông cha, theo nhà vua làm như vậy là để cảnh tỉnh tham quan rằng nếu bị ông tra ra thì "con cháu đời sau cũng không ngóc lên được". Để ngăn chặn tham nhũng, Ung Chính cho bỏ đi những loại "phí trà nước" mà các quan viên thường dùng để bòn rút công quỹ.
Bên cạnh những biện pháp nghiêm ngặt, Ung Chính còn đặt ra "Dưỡng liêm ngân", một số tiền lớn lấy từ số dư hàng năm trong quốc khố để thưởng cho các quan. Tiền dưỡng liêm của huyện lệnh thất phẩm là từ 400 đến 2,000 lượng bạc, còn của một viên Tổng đốc là vào khoảng 10,800 lượng bạc, gấp 100 lần bổng lộc hằng năm. Những việc làm này của Ung Chính Đế đã cải thiện tình hình tài chính của đế quốc, thu nhập gia tăng, đến lúc ông mất ngân khố đã có tới 5,000 vạn lượng.
Cải cách chế độ
Vì là Hoàng đế độc tài nên Ung Chính muốn bản thân phải là người kiểm soát tối cao của đế quốc, để được như thế Ung Chính đã cho hoàn thiện chế độ "mật chiết". Mật chiết là việc trao đổi thông tin giữa Hoàng đế và thần tử thông qua một chiếc hộp được khóa kín có 2 chìa khóa, một chiếc do quan viên cần trình tấu giữ, một chiếc do Hoàng đế giữ, không có người thứ 3 biết được. Các thần tử mật tấu cho nhà vua bao gồm nhiều nội dung như các vấn đề liên quan đến đại sự đất nước đến việc tố cáo các quan viên khác, việc này chỉ có bản thân và Hoàng đế biết, có nói sai cũng không sao vì đây là công văn không chính thức không được lưu lại, nên các quan viên rất tích cực mật tấu. Thời Nhà Thanh, thần tử dâng tấu phải viết bằng hai bản, một tiếng Hán và một tiếng Mãn, lại phải thông qua nhiều kênh sàng lọc. Thông qua mật chiết, thần tử có thể viết ngắn gọn tấu lên trực nhà vua mà không làm lỡ thời gian. Tuy nhiên chỉ có một số quan viên được nhà vua chỉ định mới có quyền mật tấu, để tránh việc hàm oan cho người khác. Tuy nhiên để tránh việc bị tiểu nhân lừa gạt, Ung Chính đã có một số quy định khi sử dụng mật chiết: nhà vua cố gắng lắng nghe từ khắp nơi chứ không phải một phía, lấy ý kiến của nhiều người để có phán đoán chính xác; nếu có người bị tố cáo, Ung Chính cho phép họ tự biện giải nhưng không tiết lộ tên người tố cáo họ để bảo đảm không hàm oan người tốt. Việc áp dụng mật chiết giúp hệ thống tai mắt của Ung Chính trong khắp đế quốc được tăng nhanh, việc gì nhà vua cũng được biết một cách nhanh chóng, Hoàng đế ngồi trong Tử Cấm Thành mà nắm được việc thiên hạ, chính thức trở thành đầu não của đất nước.
Dùng người theo việc
Ung Chính từng nói: "Trị thiên hạ, dùng người là việc cơ bản, việc khác chỉ là vụn vặt". Theo quan niệm xưa, nhân tài phải bao gồm hai mặt "đức" và "tài", trong đó "đức" được xem trọng hơn tài. Người có đức độ mà kém cỏi trong công việc vẫn được ngồi cao hơn người có tài mà nhân cách có tì vết, việc này dẫn đến quan viên vô dụng, người có tài thì không được cất nhắc. Ung Chính không bám theo khuôn mẫu đó, nhà vua rất thích câu nói của Ngạc Nhĩ Thái: "Việc có nhanh chậm, dễ khó; người có mềm cứng, ngắn dài", nên nhà vua chủ trương ngoài tài và đức thì dùng người trước hết phải nhìn việc. Chu Thức, học vấn tốt, làm người hiền hòa lại thanh liêm chính trực, Ung Chính cho làm thầy của Càn Long. Lý Vệ, tính lưu manh thô lỗ nhưng bạo dạn nhanh nhẹn, Ung Chính cho đi bắt cướp. Tri huyện Ngô Kiều là Thường Tam Lạc, tuy liêm khiết nhưng nhu nhược không hăng hái, Ung Chính cho đổi làm học quan, không lo việc dân sự. Ung Chính dùng người, lấy sở trường bỏ sở đoản, khiến người ta dốc sức, phát huy tài năng, một vị quân chủ tầm thường không bao giờ làm được như vậy.
Văn hóa
thumb|Tranh vẽ Ung Chính Đế mặc trang phục Đạo giáo.
Trong tâm thức người Hán, tuy người Mãn đã chiếm được giang sơn của họ, nhưng vẫn phải quay về học tập văn hóa của người Hán, điều này làm giới trí thức người Hán xem thường giai cấp thống trị Mãn Châu là man rợ vô văn hóa. Cả Khang Hi và Ung Chính đều hiểu muốn cai trị được đất nước này phải học tập văn hóa Hán và cùng bàn văn hóa với họ.
Để làm điều này, Ung Chính cho tôn Khổng tử lên một địa vị chưa từng có. Ung Chính cho tôn tổ tiên năm đời của Khổng tử lên làm Vương, còn quỳ bái trước tượng Khổng tử. Trước nay Đế vương chỉ phải quỳ trước trời đất tổ tông, Ung Chính làm vậy đã tôn Khổng tử lên ngang với trời đất và tổ tiên cha mẹ mình, không gì tôn quý bằng. Ung Chính còn cho sửa lại cách xưng hô, khi đến gặp các Nho sĩ ở trường Thái học dùng là "bái phỏng thỉnh giáo" chứ không phải là "quang lâm chỉ đạo", thể hiện sự tôn trọng đối với phần tử trí thức. Ung Chính có lần cho hỏi sĩ tử thế nào là "lễ nghĩa liêm sỉ", nhà vua cho rằng: biết nghi văn lễ tiết, biết thoái lui nhường nhịn chỉ là "tiểu lễ"; biết thận trọng thủ tín, cẩn thận trong việc làm và lời nói chỉ là "tiểu nghĩa"; thi hành giáo hóa dân chúng, thuần hóa phong tục, dạy người trong thiên hạ là thần phải tận trung, là con phải tận hiếu, mới là "đại lễ"; luôn thành thực lo việc công, thẳng thắn chính trực, khiến người đời không đảng không tư, chung sức chung lòng vượt khó, mới là "đại nghĩa". Lời này đã khiến sĩ tử khắp thiên hạ phải thán phục. Thông qua những việc này, Ung Chính đã lấy lòng được người đọc sách khắp thiên hạ, củng cố vững chắc giang sơn của Đại Thanh.
Bên cạnh việc sử dụng Nho giáo cho việc trị nước, Ung Chính cũng tôn trọng Đạo giáo và đặc biệt là Phật giáo. Ông thường đàm đạo với các tăng sĩ, nhờ vậy có được kiến thức khá rộng về Thiền tông. Ông còn lấy đạo hiệu là Cư sĩ Viên Minh hay Cư sĩ Hòa Phá Trần, tự mình lập pháp đàn trong đại nội, chiêu tập tăng sĩ trong cả nước về dự. Ông còn đăng đàn thuyết pháp và đặt pháp danh cho con mình là Hoằng Lịch cùng các đại thần Trương Đình Ngọc và Ngạc Nhĩ Thái. Có lần, khi rỗi việc nước, Ung Chính đã sai họa sĩ vẽ tranh ông mặc tăng phục của các lạt–ma Mật tông Tây Tạng.
Cuối đời Ung Chính, đặc biệt là sau khi Di Thân vương Dận Tường mất (1730), nhà vua càng thêm mộ đạo, cho mở nhiều tiệc chay trong cung hơn trước. và khi Tây Tạng bị chia cắt bởi cuộc nội chiến từ năm 1717–1728, ông đã rút toàn bộ quân đội, chỉ để lại một viên quan Nhà Thanh và các đơn vị đồn trú để bảo vệ biên giới thiên triều. Tuy nhiên, cũng cần nhớ rằng Ung Chính đã cải cách lại chế độ thuế má vào thời điểm đó nên không có chính sách ưu đãi cho giai cấp thượng lưu và áp dụng chế độ thuế đất mới cho các chủ đất.
Qua đời
Năm Ung Chính thứ 13 (1735), tháng 5, người Miêu ở Quý Châu phản loạn, Hoàng đế sai Hạ Nguyên Sinh làm Dương Uy Tướng quân, lĩnh 4 tỉnh quan binh đi chinh phạt. Cùng lúc đó, Hoàng đế sai Quả Thân vương Dận Lễ, Hoàng tứ tử Hoằng Lịch, Hoàng ngũ tử Hoằng Trú, Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Trương Đình Ngọc xử lý Miêu Cương sự vụ.
Ung Chính Đế không ưa xa hoa, nhưng hay đến các vườn tược trú ngụ, đặc biệt là Viên Minh Viên do ông đích thân xây dựng, để tránh nóng bức mà thường ở tại Cửu Châu Thanh Yến (九洲清宴), Tứ Nghi thư phòng (四宜书屋) và Vạn Phương An Hòa (万方安和). Theo Thực lục ghi lại, Ung Chính Đế vào năm thứ 13 (1735), ngày 21 tháng 8 có nhiễm bệnh, nhưng vẫn cứ làm việc.
Đến ngày 23 tháng 8 (âm lịch), Hoàng đế bệnh tình chuyển biến. Bảo Thân vương Hoằng Lịch cùng Hòa Thân vương Hoằng Trú đêm ngày hầu bệnh bên giường. Buổi tối 8 giờ, Đại học sĩ Ngạc Nhĩ Thái, Đại học sĩ Trương Đình Ngọc đến Ung Chính Đế phòng ngủ, cung phủng thượng ngự bút thân thư rằng:"Mệnh Hoàng tứ tử Bảo Thân vương Hoằng Lịch làm Hoàng thái tử, tức Hoàng đế vị.".
Để tránh sự kiện Cửu vương đoạt Trữ thời Khang Hi Đế, bản thân Ung Chính Đế đã quyết định chỉ công bố người kế vị vào phút chót. Ung Chính Đế cho viết tên người kế vị vào hai tờ giấy, một tờ giấu trong một cái hộp, cái hộp sau đó được để sau tấm biển Chính Đại Quang Minh (chữ Hán: 正大光明) trong Càn Thanh cung. Một tờ Hoàng đế giữ bên mình. Khi Ung Chính Đế băng hà, các đại thần sẽ lấy hai tờ giấy so sánh với nhau, nếu tên người kế vị trong hai tờ giấy giống nhau thì người ấy chính là Hoàng đế tiếp theo của Đại Thanh. Từ đó, sáng lập lên "Bí mật kiến Trữ" chế độ nổi tiếng của Nhà Thanh.
Nửa đêm giờ Tý, Hoàng đế băng hà, hưởng niên 58 tuổi. Và người được chọn là Hoàng tứ tử Hoằng Lịch, lên ngôi tức Thanh Cao Tông Càn Long Đế.
Càn Long Đế tôn miếu hiệu cho cha là Thế Tông, thụy hiệu là Kính Thiên Xương Vận Kiến Trung Biểu Chính Văn Vũ Anh Minh Khoan Nhân Tín Nghị Duệ Thánh Đại Hiếu Chí Thành Hiến Hoàng đế (敬天昌運建中表正文武英明寬仁信毅睿聖大孝至誠憲皇帝), thường xưng Thế Tông Hiến Hoàng đế (chữ Mãn:, phiên âm: šidzung temgetulehe hūwangdi).
Ngày 2 tháng 3 năm Càn Long thứ 2 (1737), đưa linh cữu Ung Chính Đế vào khu Tây Thanh Mộ, 120 km về phía tây nam thành Bắc Kinh, táng ở Thái Lăng (泰陵; tên dưới thời Nhà Thanh là Elhe Munggan).
Đánh giá
Nhận xét chung
Nhiều sử gia thời nay đánh giá cao Ung Chính. Họ cho rằng sự lâu dài của Nhà Thanh là một chế độ ngoại lai (sự lâu dài của các triều đại khác thường chỉ kéo dài được một trăm năm) hoàn toàn nhờ vào các cải cách của Ung Chính. Tuy nhiên vẫn có sự chỉ trích vào sự tàn nhẫn của ông. Thí dụ điển hình là trường hợp Ung Chính thanh trừ Niên Canh Nghiêu và Long Khoa Đa, những người mà thiếu họ thì Ung Chính đã chẳng thể lên ngôi và ngồi vững ngai vàng những ngày đầu.
Vai trò lịch sử
Được đánh giá là một vị Hoàng đế nghiêm khắc và tận tụy, Ung Chính đã xây dựng một vương triều vững mạnh dựa trên việc chi tiêu một cách thấp nhất. Cũng giống như vua cha Khang Hi, Hoàng đế Ung Chính dùng sức mạnh quân đội để bảo vệ vị thế của thiên triều.. Lý Quý nhân (李貴人) (? – 1760). Được phong Quý nhân năm 1729. Mất vào ngày 28 tháng 4 năm Càn Long thứ 25 (1760). Hải Quý nhân (海貴人) (? – 1761). Năm 1725, phong Thường tại; năm 1735 tấn phong Quý nhân. Mất vào tháng 12 năm Càn Long thứ 26 (1761). Trương Quý nhân (張貴人) (? – 1735). Nhập cung làm Thường tại; năm 1735 tấn phong Quý nhân. Mất vào ngày 21 tháng 4 năm Ung Chính thứ 13 (1735). An Quý nhân (安貴人) (? – 1749). Nhập cung năm 1729. Mất vào năm Càn Long thứ 14 (1749). Lão Quý nhân (老贵人) (? – 1736). Sinh ra muộn nhất là vào năm Thuận Trị thứ 10 (1653), vào những năm Khang Hy được chọn vào cung, phong làm Thường tại, nhưng chưa từng “phụng ngự”. Sau khi Thế Tông lên ngôi, vì bà đã cao tuổi, nên được tấn phong làm Quý nhân theo lệ thường, gọi là “Lão Quý nhân”, đã từng nuôi dưỡng con trai thứ năm của Thế Tông là Hòa Thạc Hòa Cung Thân vương Hoằng Trú. Vào năm Ung Chính thứ 8 (1730) từng mắc bệnh nặng, cuối cùng vào giờ Ngọ ngày 26 tháng 4 năm Càn Long thứ nhất (1736) thì qua đời. Lý Thường tại (李常在) (? – 1787). Trở thành Đáp ứng năm 1730; Thăng Thường tại năm 1732. Mất vào tháng 3 năm Càn Long thứ 52 (1787). Na Thường tại (那常在) (? – 1735). Mất vào cuối năm Ung Chính thứ 13 (1735). Mã Thường tại (馬常在) (? – 1768). Trở thành Đáp ứng rồi thăng Thường tại năm 1730. Mất vào ngày 11 tháng 4 năm Càn Long thứ 33 (1768). Xuân Thường tại (春常在) (? – 1765). Trở thành Thường tại năm 1735. Mất vào năm Càn Long thứ 30 (1765). Cao Thường tại (高常在) (? – 1732). Trở thành một Đáp ứng năm 1729; thăng Thường tại năm 1730. Mất vào khoảng tháng 7 đến cuối tháng 12 năm Ung Chính thứ 10 (1732). Thường Thường tại (常常在) (? – 1732). Trở thành Thường tại năm 1729. Mất vào tháng 8 năm Ung Chính thứ 10 (1732). Cố Thường tại (顧常在) (? – 1729). Tháng 4 năm Ung Chính thứ 7 (1729) nhập cung, chết 5 tháng sau đó. Cát Thường tại (吉常在) (? – Khoảng 1760). Nhập cung phong Đáp ứng năm 1727; năm 1736, tấn phong Thường tại. Mất vào khoảng năm Càn Long thứ 25 (1760). Tô Đáp ứng (蘇答應) (? – 1729). Trở thành Đáp ứng năm 1726. Mất vào sau tháng 8 năm Ung Chính thứ 7 (1729). Anh Đáp ứng (英答應) (? – ?) Uông Đáp ứng (汪答應) (? – ?) Đức Đáp ứng (德答應) (? – ?) Thường Đáp ứng (常答應) (? – ?) Vân Huệ (雲惠), hay Vân Đáp ứng (? – 1731). Mất vào năm Ung Chính thứ 9 (1731). Thời Càn Long được truy phong là Đáp ứng. Tô Cách cách (苏格格) (? – ?) Y Cách cách (伊格格) (? – ?) Trương Cách cách (張格格) (? – ?) Trương Cách cách (張格格) (? – ?). Bà và vị "Trương Cách cách" kia không phải là cùng một người. Con gái của Thường An (常安之女). Không rõ năm sinh, năm mất. Là người Mãn Châu Tương Bạch kỳ, con gái của Giám sinh Thường An. Vào năm Khang Hy thứ 45 (1706) tham gia Bát Kỳ tuyển tú, vào ngày 28 tháng Giêng được Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu chỉ định ban cho Thế Tông. Sau đó không rõ.
Hậu duệ
Hoàng đế Ung Chính có 10 Hoàng tử và 4 vị Hoàng nữ, trong đó chỉ có 6 vị Hoàng tử sống được đến thời Ung Chính tại vị. Trong 13 năm trên ngai vàng, Ung Chính Đế chỉ có thêm Hoằng Chiêm.
- Con trai # Hoằng Huy (弘暉; 26 tháng 3 năm 1697 – 6 tháng 6 năm 1704), mẹ là Hiếu Kính Hiến Hoàng hậu. Là Hoàng trưởng tử. Mất năm 8 tuổi, được Càn Long Đế truy phong làm Hòa Thạc Đoan Thân vương (和硕端親王). An táng tại Hoằng Huy viên tẩm (弘暉園寢) # Hòa Thạc Hoài Thân vương (和硕懷亲王) Phúc Huệ (福惠; 9 tháng 10 năm 1721 – 9 tháng 9 năm 1728). Trên thực tế là con trai thứ 8, do Hoằng Phán chết yểu không được liệt kê. Vốn tên Hoằng Thăng (弘晟). Do Đôn Túc Hoàng quý phi sinh ra, là con trai được Ung Chính Đế rất yêu quý. Thời Càn Long tặng làm Hòa Thạc Thân vương. # Phúc Phái (福沛; 10 tháng 5 năm 1723 – 10 tháng 5 năm 1723), mẹ là Đôn Túc Hoàng quý phi. Chết ngay sau khi sinh. # Quả Cung Quận vương (果恭郡王) Hoằng Chiêm (弘瞻; 9 tháng 5 năm 1733 – 27 tháng 4 năm 1765), mẹ là Khiêm phi. Lấy làm con thừa tự của Quả Nghị Thân vương Doãn Lễ – con trai thứ 17 của Khang Hi Đế.
- Con gái # Hoàng trưởng nữ (16 tháng 3 năm 1694 – 1694), mẹ là Mậu tần. Chết yểu. # Hòa Thạc Hoài Khác Công chúa (和碩懷恪公主; 6 tháng 7 năm 1695 – tháng 3 năm 1717) mẹ là Tề phi. Là Hoàng nhị nữ và là Hoàng nữ duy nhất sống đến tuổi trưởng thành.Hạ giá kết hôn với Nạt Lạp Tinh Đức (納喇星德). Được truy phong Hòa Thạc Công chúa sau khi Ung Chính lên ngôi. # Hoàng tam nữ (5 tháng 12 năm 1706 – 1706), mẹ là Mậu tần. Chết yểu. # Hoàng tứ nữ (12 tháng 3 năm 1715 – 5/1717), mẹ là Đôn Túc Hoàng quý phi. Chết yểu.
- Con nuôi * Con trai # Lý Khác Quận vương Hoằng Quế (弘㬙; 27 tháng 1 năm 1719 – 25 tháng 9 năm 1780). Là con trai thứ 10 của Lý Mật Thân vương Dận Nhưng, mẹ là Trắc Phúc tấn Trình Giai thị # Phụng ân Phụ quốc công Hoằng Hoàn (弘皖; 21 tháng 9 năm 1724 – 1 tháng 5 năm 1775). Là con trai thứ 12 của Lý Mật Thân vương Dận Nhưng, mẹ là Trắc Phúc tấn Trình Giai thị. # Phụng ân Phụ quốc công) Vĩnh Kính (永璥; 1716 – 1787). Là con trai thứ ba của Hoằng Tấn (弘晋) – con trai thứ ba của Lý Mật Thân vương Dận Nhưng. * Con gái # Hòa Thạc Thục Thận Công chúa (和碩淑慎公主; 18 tháng 8 năm 1708 – 30 tháng 4 năm 1784). Là con gái thứ sáu của Lý Mật Thân vương Dận Nhưng và Trắc Phúc tấn Đường Giai thị. Năm 1726, hạ giá lấy Quan Âm Bảo (觀音保), họ hàng xa của Hiếu Huệ Chương hoàng hậu. # Hòa Thạc Đoan Nhu Công chúa (和碩端柔公主; 29 tháng 2 năm 1714 – 12 tháng 12 năm 1754). Là con gái trưởng của Trang Khác Thân vương Dận Lộc và Đích Phúc tấn Quách Lạc La thị. Năm 1730, hạ giá lấy Tề Mặc Đạt Đa Nhĩ Tể (齊默特多爾濟) của Khoa Nhĩ Thấm Mông Cổ. # Hòa Thạc Hòa Huệ Công chúa (和碩和惠公主; 10 tháng 10 năm 1714 – 3 tháng 10 năm 1731). Là Con gái thứ tư của Di Hiền Thân vương Dận Tường và Đích Phúc tấn Triệu Giai thị. Năm 1729, hạ giá lấy Đa Nhĩ Tể Tắc Bố Đằng (多爾濟塞布騰) của Bát Nhĩ Tế Cát Đặc bộ Mông Cổ.