Phạm Hữu Quang
Phạm Hữu Quang (1952 - 2000) là một nhà thơ ở Đồng bằng sông Cửu Long, tác giả của bài thơ Giang hồ nổi tiếng.
Tiểu sử
Phạm Hữu Quang sinh năm 1952 tại Bắc Đuông, Thốt Nốt, tỉnh Cần Thơ, Việt Nam.
Từng học Đại học Sư phạm Sài Gòn rồi chuyển về học Đại học Cần Thơ, khi ra trường, ông đi dạy vài ba năm rồi chuyển qua công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật An Giang.
Từ năm 1969, ông đã có thơ có thơ đăng trên các tạp chí văn chương, nhưng ông sáng tác không nhiều.
Ông lâm bệnh mất lúc 12 giờ 45 phút ngày 28 tháng 4 năm 2000 tại Long Xuyên, An Giang.
Bài thơ Giang hồ (nguyên tác)
:Tàu đi qua phố, tàu qua phố
:Phố lạ mà quen, ta giang hồ
:Chẳng lẽ suốt ngày bên bếp vợ
:Chẻ củi, trèo thang với... giặt đồ?
:Giang hồ đâu bận lo tiền túi
:Ngày đi ta chỉ có tay không,
:Vợ con chẳng kịp chào xin lỗi
:Mây trắng trời xa, trắng cả lòng...
:Giang hồ ta ghé nhờ cơm bạn
:Đũa lệch mâm suông cũng gọi tình
:Gối trang sách cũ nằm nghĩ bụng
:Cười xưa Dương Lễ với Lưu Bình.
:Giang hồ có bữa ta ngồi quán
:Quán vắng mà ta chẳng chịu về
:Cô chủ giả đò nghiêng ghế trống
:Đếm thấy thừa ra một gốc si.
:Giang hồ mấy bận say như chết
:Rượu sáng chưa lưa đã rượu chiều
:Chí cốt cầm ra chai rượu cốt
:Ừ. Thôi. Trời đất cứ liêu xiêu...
:Giang hồ ta chẳng thay áo rách
:Sá gì chải lược với soi gương
:Sáng nay mới hiểu mình tóc bạc
:Chợt tiếng trẻ thưa ở bên đường.
:Giang hồ ba bữa buồn một bữa,
:Thấy núi thành sông biển hoá rừng
:Chân sẵn dép giầy, trời sẵn gió
:Ngựa về. Ta đứng. Bụi mù tung...
:Giang hồ tay nải cầm chưa chắc
:Hình như ta mới khóc hôm qua
:Giang hồ ta chỉ giang hồ vặt
:Nghe tiếng cơm sôi cũng nhớ nhà.
:
:nguồn: Thica.net
:https://www.thica.net/2008/02/15/giang-h%E1%BB%93/
Tác phẩm đã in
- Đàn Gà Con – Văn nghệ An Giang 1980
- Ngẫu Hứng Chiều Sông Hậu - Văn nghệ An Giang 2000
Cảm nhận
Nhà thơ Yên Uyên Sa viết:
Phạm Hữu Quang viết nhiều đề tài, nhiều mặt của cuộc sống. Ở đề tài nào Quang cũng gần như nắm bắt được cái "hồn" của nó. Thơ viết về gia đình cứ man mác mà thẩm thấu:
:Em suốt đời chẳng hiểu được mình
:Vẫn như bé khi về bên chị
:Cây gáo chẳng hóa thành cây thị
:Nhưng chị em mãi là nàng tiên
(Thơ tặng chị ruột, 1986)
Thơ viết về tình yêu đọc nghe lạnh mà đau đớn:
:Có khác đâu buổi chiều mười năm trước
:Tiễn em xa mưa nổi bóng hiên ngoài
:Ta vô cớ cười rung như tiếng lạc
:Mười năm ư? Chưa dứt hạt mưa bay
(Chiều mưa trở lại thị trấn N, 1982)
Những bài thơ viết về những chuyến "giang hồ vặt", gặp bạn chí cốt hay những bài thơ viết về chính mình trong vùng kinh tế mới là những bài thơ thành công của quang bởi chất vừa thực vừa thơ.
Với tôi, có lẽ tiếng "Ừ" được Quang sử dụng trong thơ cũng đã góp thêm vào sự thành công ấy...
:Ta về, ừ nhỉ ta về thôi
:Ô hay bến thuyền kèo cột gãy
:Qua mùa hoạn lộ chẳng còn vui...
(Về quê, 1987)
:Ừ thì ta hát em nghe
:Câu thơ hát trước câu vè hát sau...
:...Tình - tang tang - tính tang – tình
:Em đi bỏ chỉ một mình ta nghe
(Khúc ru, 1986)
Nhà văn Trần Nhã Thụy cảm nhận về thơ giang hồ của Phạm Hữu Quang:
Nói cho đúng, thơ Phạm Hữu Quang không nhiều. Nhưng anh có bài "Giang hồ" quá xuất thần, dường như ai chỉ cần nghe đọc một lần là cũng có thể thuộc vài câu. Tất nhiên bài "Giang hồ" không chỉ có hai câu hay, mà còn có nhiều câu thấm thía, ví dụ:
:Giang hồ ba bữa buồn một bữa
:Thấy núi thành sông biển hóa rừng...
Ồ! Thì ra xưa nay, người rong ruổi giang hồ cũng không phải là hiếm, nhưng mới đi ba bữa đã sầu một bữa, quặn lòng mình để cho thơ lên ngôi thì cũng chỉ riêng thi sĩ thứ thiệt mới có. Thật ra, giang hồ - xê dịch - rong chơi; nó vừa là hành động vừa là ý niệm của người thơ. Dấn thân để được đi mãi trên con đường sáng tạo luôn là ước muốn lớn lao của những ai làm nghệ thuật. Nhà thơ Thế Lữ từng viết: "Ta là một khách chinh phu/ Dấn bước truân chuyên khắp hải hồ". Thấy chưa? Giang hồ, đâu phải chỉ "đã đời sông núi" riêng mình, mà đôi khi nó là sứ mệnh.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Phạm Hữu Quang **Phạm Hữu Quang** (1952 - 2000) là một nhà thơ ở Đồng bằng sông Cửu Long, tác giả của bài thơ _Giang hồ_ nổi tiếng. ## Tiểu sử Phạm Hữu Quang sinh
**Phạm Hữu Nghi** (; 1797 – 1862) tự **Trọng Vũ** (), hiệu **Đạm Trai** (), là một quan viên dưới triều nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông từng làm quan qua 3 triều
**Phạm Hữu Nhật** (chữ Hán: 范有日; 1804 - 1854), tên thật là Phạm Văn Triều, là thế hệ thứ tư của thủy tổ họ Phạm (Văn) ở cù lao Ré (Lý Sơn, Quảng Ngãi) và
**Phạm Văn Quang** là kiểm sát viên cao cấp Việt Nam. Ông hiện giữ chức vụ Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương. ## Tiểu sử Phạm Văn Quang là đảng viên
**Phạm Ngọc Quảng** là Trung tướng Công an nhân dân Việt Nam. Ông từng giữ chức vụ Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo, Bộ Công an. ## Tiểu sử Ông là trưởng nam
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
Tộc phả là một kho tàng chứa đựng mối quan hệ tình cảm sâu đậm của những người con, người cháu có cùng chung một huyết thống. Là tình cảm thiêng liêng rất tự nhiên,
Yết Kiêu là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết
**Phạm Hữu Nhơn** (sinh ngày 1 tháng 1 năm 1928), nguyên là một tướng lĩnh Bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ khóa duy nhất
**Vương Hữu Quang** (, ? - 1886) tự **Dụng Hối** (用悔) hiệu **Tế Trai** (祭齋) là một quan đại thần triều Nguyễn, người Việt gốc Hoa, trải 22 năm dưới các đời vua Minh Mệnh,
**Phạm Liệu** (范燎, 1873-1937), tự là **Sư Giám**, hiệu là **Tang Phố** (桑圃), là một danh sĩ Việt Nam. Ông được xem là người đứng đầu nhóm Ngũ Phụng Tề Phi, từng làm quan trải
nhỏ|250x250px|Cảnh vật ban đêm của quảng trường Kim Tử Kinh.**Quảng trường Kim Tử Kinh** (chữ Anh: _Golden Bauhinia Square_) ở vào cánh mới của Trung tâm Hội nghị và Triển lãm Hồng Kông phía tây
**Trường Đại học Sư phạm** (tiếng Anh: _Thai Nguyen University of Education_) là một trường đại học thành viên của Đại học Thái Nguyên. Trường có vai trò là trung tâm đào tạo đại học,
**Phạm Lam Anh** là một nhà thơ Việt Nam thời chúa Nguyễn. ## Tiểu sử Bà có nguyên danh là **Phạm Hữu Thị Khuê**, tự **Lam Anh**, hiệu **Ngâm Si**, sinh vào khoảng nửa đầu
**Phạm Hầu** (2 tháng 3 năm 1920 – 3 tháng 1 năm 1944) hay **Phạm Hữu Hầu** (tên ghi trong gia phả) là nhà thơ tiền chiến Việt Nam. ## Tiểu sử **Phạm Hầu** sinh
**Phạm Duy** (5 tháng 10 năm 1921 – 27 tháng 1 năm 2013), tên khai sinh **Phạm Duy Cẩn** là nhạc sĩ, nhạc công, ca sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc lớn của Việt Nam.
**Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn** (sinh ngày 5 tháng 3 năm 1934) là một hồng y người Việt Nam thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và hiện đảm nhận vai trò Hồng y đẳng Linh
**Phêrô Maria Phạm Ngọc Chi** (14 tháng 5 năm 190921 tháng 1 năm 1988) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Qui Nhơn
**Phạm Đình Kính** (chữ Hán: 范廷鏡; 1669-1737), tên khai sinh là **Phạm Kim Kính**, là một vị quan thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Phạm Đình Kính là người tài cao, đức
**Phạm Thị Huệ** (sinh năm 1996) là một nữ vận động viên điền kinh người Việt Nam. ## Tiểu sử Phạm Thị Huệ sinh ngày 26 tháng 9 năm 1996 tại thôn Tân Lương xã
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
**Tađêô Lê Hữu Từ** (28 tháng 10 năm 1897 – 24 tháng 4 năm 1967) là một giám mục Công giáo người Việt Nam, với khẩu hiệu giám mục là "Tiếng kêu trong hoang địa" (_Vox
**Phạm Thị Trinh** (8 tháng 3 năm 1914 - 10 tháng 4 năm 2019), đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Bà thuộc thế hệ những đảng viên đầu tiên của Đảng. Phạm
**Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng** (tiếng Anh: _University of Science and Education, the University of Da Nang_ – **UDN-UEd**) là trường thành viên Đại học Đà Nẵng, chuyên đào tạo
Đây là danh sách danh nhân sinh ra ở tỉnh Quảng Bình, Việt Nam theo từng lĩnh vực. ### Chính trị gia #### Nhà Hồ * Hoàng Hối Khanh (1362-1407), Lệ Thủy #### Nhà Mạc
**Phạm Hồng Thanh** (sinh năm 1946) là một Tướng lĩnh cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Tuyên huấn, Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên
**Phạm Văn Nhân** (1745 – 1815) là một võ quan đại thần vào cuối thời chúa Nguyễn cai trị Đàng Trong và đầu triều Nguyễn. Ông đã theo chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau
**Quảng Bình** là một tỉnh ven biển cũ nằm ở phía nam vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung của Việt Nam. Tỉnh lỵ của tỉnh là thành phố Đồng Hới. Nơi đây cũng là nơi
**Phạm Như Xương** (范如昌, 1844 - 1917) là một vị quan triều Nguyễn. ## Thân thế và sự nghiệp Phạm Như Xương sinh năm 1844 tại Quảng Nam, ông mất năm 1917, tự là Phồn
**Phạm Ngọc Lan** (1934–2019) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Tuy nhiên, ông thường được nhiều người biết đến với tư cách là phi công Việt Nam đầu
**Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng, kinh tế, buôn lậu** **(C03**) trực thuộc Bộ Công an (Việt Nam) có chức năng tham mưu giúp Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều
**Quảng trường Concorde** (, phiên âm tiếng Việt là **Quảng trường Công-coóc**) - _tiếng Việt:_ **_Quảng trường Hòa Hợp_** là một trong những quảng trường nổi tiếng của Pháp tại Paris, nằm ngay bên bờ
**Phạm Minh Chính** (sinh ngày 10 tháng 12 năm 1958) là một chính trị gia người Việt Nam. Ông hiện là Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Phó
**Giuse Phạm Văn Thiên** (1907–1997) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Việt Nam. Ông là Giám mục tiên khởi của Giáo phận Phú Cường, đồng thời giữ chức vụ này từ
**Phạm Tử Nghi** (范子儀, 1509 -1551) là một võ tướng dưới triều đại nhà Mạc. Phạm Tử Nghi là con ông Phạm Hành (mất sớm) và bà Nguyễn Thị Bèo, (bà người huyện Nghi Dương,
**Quảng Tây** (Tiếng Tráng: _Gvangjsih_; chính tả kiểu cũ: _Gvaŋзsiƅ_; chữ Hán giản thể: 广西; chữ Hán phồn thể: 廣西; bính âm: _Guǎngxī_), tên đầy đủ **Khu tự trị
**Phạm Phú Thứ** (chữ Hán: 范富庶; 1821 – 1882), trước khi đỗ ,tên là **Phạm Hào** (khi đỗ Tiến sĩ được vua Thiệu Trị đổi tên là **Phú Thứ**), tự **Giáo Chi** (教之), hiệu **Trúc
**Phạm Duy Tốn **(chữ Hán: 范維遜; 1883 –25 tháng 2 năm 1924) là nhà văn xã hội tiên phong của nền văn học mới Việt Nam hồi đầu thế kỷ 20. Trước khi trở thành
phải|nhỏ| Một quảng cáo cho các dịch vụ chuẩn bị bản quyền và bằng sáng chế từ năm 1906, khi các thủ tục đăng ký bản quyền vẫn được yêu cầu ở Mỹ **Vi phạm
right|thumb|Tượng Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh trong đình Bình Kính, [[Hiệp Hòa, Biên Hòa|xã Hiệp Hòa, Biên Hòa]] **Nguyễn Hữu Cảnh** (chữ Hán: 阮有鏡, 1650 – 1700), nguyên danh là **Nguyễn Hữu Kính**, với
nhỏ|phải|Chân dung Vũ Phạm Khải **Vũ Phạm Khải** (chữ Hán: 武范啟, 1807 – 1872), là một vị quan tiến bộ của triều đình nhà Nguyễn, một trong những vị quan tích cực nhất trong phái
**Phạm Quang Nghị** (sinh ngày 2 tháng 9 năm 1949) là một chính khách Việt Nam. Ông từng là đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa XIII nhiệm kì 2011-2016 thuộc đoàn đại biểu Hà
**Louis (hay Aloisio hoặc Luy) Phạm Văn Nẫm** (1919–2001) là một giám mục của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Ông nguyên là Giám mục phụ tá của Tổng giáo phận Thành phố Hồ
**Thanh Tuyên Tông** (chữ Hán: 清宣宗, 16 tháng 9 năm 1782 – 26 tháng 2 năm 1850), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 8 của triều đại
**Phạm Vân Anh** (sinh năm 1980 tại Hải Phòng) là nhà văn, nhà biên kịch, dịch giả hiện sinh sống và làm việc tại Việt Nam. Bà hiện là Hội viên Hội Nhà văn Việt
**Quảng Châu** (chữ Hán giản thể: 广州, phồn thể: 廣州, pinyin: _Guǎngzhōu_, Wade-Giles: _Kuang-chou_, việt phanh: _Gwong2zau1_, Yale: _Gwóngjaū_) là thủ phủ và là thành phố đông dân nhất của tỉnh Quảng Đông ở miền
**Quảng cáo trực tuyến**, còn được gọi là **tiếp thị trực tuyến**, quảng cáo Internet, **quảng cáo** **kỹ thuật số** hoặc **quảng cáo web**, là một hình thức tiếp thị và quảng cáo sử dụng
**Lại Văn Quang** (chữ Hán: 赖文光, 1827 – 1868), dân tộc Khách Gia, tướng lãnh Thái Bình Thiên Quốc, từng tham gia khởi nghĩa Kim Điền vào buổi đầu của phong trào, được phong **Tuân
**Phạm Minh Tâm** (1930 – 28 tháng 12 năm 2020) là một sĩ quan cao cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó tổng Thanh tra Quân đội. Ông là
**Phạm Văn Trình** (chữ Hán: 范文程, 1597 – 1666), tự là **Hiến Đấu** (憲斗), sinh quán là Thẩm Dương vệ (nay là Thẩm Dương, Liêu Ninh), nguyên quán là Lạc Bình, Giang Tây, quan viên,