✨Tướng quân Yết Kiêu - Phạm Hữu Thế

Giới thiệu tóm tắt danh tướng Yết Kiêu - Phạm Hữu Thế

Yết Kiêu là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương).Nhà Yết Kiêu rất nghèo, nên ngày ngày phải lặn lội ven sông mò cua, bắt cá. Yết Kiêu có tài bơi lặn giống như một loài thuỷ tộc. Sau này, ông là một trong năm tuỳ tướng tài giỏi và thân tín của Trần Hưng Đạo, đó là: Cao Mang, Đại Hành, Nguyễn Địa Lô, Dã Tượng và ông.

Trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên-Mông thế kỷ XIII, ông chuyên dùng tài bơi lặn của mình để xâm nhập sâu vào đội hình địch để đục thủng đánh chìm các chiến thuyền, mang lại nhiều chiến công vang dội đóng góp lớn cho các cuộc kháng chiến. Cũng bằng tài bơi lặn của mình mà ông đã nhiều lần xông pha nơi trận tiền, giữa đội hình địch để cứu nguy và bảo vệ cho chủ tướng. Yết Kiêu rất được Hưng đạo Đại vương tin yêu và trọng dụng. Đã có lần Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn ướm hỏi về việc nhiều người khuyên can Đại vương hãy lấy lại ngôi vua từ ngành thứ về cho ngành trưởng (Cụ Trần Liễu thân phụ của Trần Hưng Đạo là anh của Trần Cảnh vị vua đầu tiên của Triều Trần. Chi tiết của sự việc nhiều người đã biết).

Hưng đạo Đại vương thử hỏi:

“…Khi phụ thân ta (tức Trần Liễu) sắp mất có dặn bảo ta phải lấy cho được thiên hạ, thì Người mới an lòng nhắm mắt. Nhà ngươi thấy thế nào, có nên làm thế không?..”

Yết Kiêu thưa:

“…Làm vậy tuy có phú quý nhất thời mà ô danh muôn thuở. Tôi muốn làm quan hầu cho Đại vương đến lúc già chết, chứ không muốn làm quan với ông vua bất trung…”

Khi ông mất, vua Trần truyền lập đền thờ ông ở bờ sông làng Hạ Bì quê ông (tên nôm là làng Quát). Hội đền Quát được tổ chức long trọng và rất lớn hàng năm vào ngày 15-8 âm lịch để tưởng nhớ Yết Kiêu. Lễ hội có tục bơi thuyền chải nam, nữ. Yết Kiêu được tôn là ông tổ của ngành bơi lặn nước ta.

Ở Hải Dương, cùng với đền Quát còn có nhiều nơi thờ phụng Yết Kiêu, nhất là những nơi ông đánh trận ngày xưa. Đặc biệt tại làng chài có tên Nam Hải, thuộc xã Kênh Giang, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương cũng có một ngôi đền do nhân dân lập lên để thờ Yết Kiêu (tức Phạm Hữu Thế). Tại đây, nhân dân coi ông là người khai thiên lập địa, là vị Thành hoàng của cả xã. Vì hầu hết người dân Kênh Giang hiện nay vẫn giữ nghề sông nước, nhưng đã vươn xa hơn ra ngoài tỉnh và ra cả biển. Điều đặc biệt tại ngôi đền này còn lưu truyền được một vật vô giá, đó là chiếc mũ chiến cổ bằng đồng rất nặng của chính Yết Kiêu đội khi đi đánh trận. Lễ hội tưởng nhớ Yết Kiêu tại đây diễn ra vào 15- Giêng âm lịch hàng năm, cũng thu hút rất đông du khách thập phương tìm về tham dự.

Về danh tướng Yết Kiêu – Phạm Hữu Thế, đời sau có thơ vịnh rằng:

“Hồ Hải xông pha tỏ ý mình

Không nề lặn lội cứu sinh linh

Đáy nước khoan thuyền bắt Bá Linh

Cướp vía Thoát Hoan khi đắc báo

Giáp oai Hưng Đạo lúc hành binh

Một mai phá giặc thành công lớn

Rạng vẻ trời Nam một tướng tinh”.Ai trong số những người họ Phạm chúng ta cũng luôn tự hào về tướng quân Yết Kiêu - Phạm Hữu Thế. Một vị tướng tài giỏi của Nhà Trần, một gia nô hết mực trung thành của Trần Hưng Đạo.

Trên địa bàn tỉnh Hải Dương còn lưu truyền một số giai thoại, truyền thuyết, ca ngợi công đức và tài năng của ông, xin trân trọng giới thiệu với bà con trong dòng tộc để chúng ta thêm tự hào về một thuở cha ông.Yết Kiêu tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê cha (cụ Phạm Hữu Hiệu) ở làng Hạ Bì, còn gọi là làng Quát ( xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay). Nhưng quê mẹ (cụ Vũ Thị Duyên) lại ở Lôi Động, xã Tân An, huyện Thanh Hà cùng tỉnh. Bố làm nghề đánh cá. Nhà nghèo, cha mất sớm, từ nhỏ Phạm Hữu Thế đã phải nối nghiệp bố lăn lộn trên sông nước, kiếm ăn nuôi mẹ. Truyền thuyết kể nhiều về tuổi niên thiếu của ông.

Một hôm, về Lôi Động, ông đi gánh nước, thấy hai con trâu một đen một trắng húc nhau chí mạng. Con trâu đen thua nhưng cục, đánh sừng rất hiểm. Con trâu trắng phi phàm, húc khỏe nhưng ra đòn nhởn nhơ. Vốn có sức khỏe vật được trâu, Hữu Thế hạ đôi thùng gánh nước, dùng đòn ống vụt vài miếng thượng hạ. Trâu đen dính đòn chạy re, lao vào làng. Trâu trắng né đòn như người, một cú xiên rất hiểm làm trâu trắng ngã lăn và kỳ lạ thay tan thành ánh nắng mờ ảo rồi biến mất. Chỗ đất trâu đứng tìm thấy hai chiếc lông. Cầm lên ngắm, tự nhiên Hữu Thế thấy máu bừng lên mặt. Ông chạy ra ao, lao xuống nước, nước rẽ đôi, lên bờ thấy lông không ướt, có lẽ nó cũng muốn tan trong nắng. Hữu Thế vội nuốt vào bụng. Từ đó thân thể cường tráng, trí lực phi thường, bơi lội dưới nước như đi trên đất bằng (Nhập thủy như phúc bình địa).

Đêm ấy về nhà, ông kể với mẹ. Vũ Nương bảo đó là chuyện đại cát. Hai mẹ con đều mơ một giấc mơ hệt nhau. Sáng ra kể, xóm làng đều cho là lạ.Giấc mơ đó là, hai mẹ con được đón một đôi trai thanh gái lịch, họ vào nhà Vũ Nương, vách đất, nền đất biến thành lâu đài. Cái ao dào dạt sóng vỗ thành con sông dài tít tắp. Trời không trăng vẫn rực sáng. Ở gốc xoan, một con trâu trắng thừng xuyên mũi buộc chặt gốc cây. Hữu Thế dụi mắt bảo mẹ: “Đúng con trâu sáng con gặp đây”. Người con trai và cô gái bảo: “Ta là Ngưu Lang và Chức Nữ, nay dịp Ngâu chúng ta gặp nhau, không chăn trâu cho trời được, phải buộc mũi không nó đi khắp bầu trời biết đâu mà tìm”. Vũ Nương hỏi: “Chúng tôi ở đâu?”. Ngưu Lang bảo: “Lúc sáng tôi đi tìm trâu gặp con trai bà, con bà không làm hại trâu. Tôi muốn mời hai mẹ con bà lên trời chơi để trả ơn. Đây là đào tiên vườn Tây Vương Mẫu, tôi biếu bà một giỏ. Còn con trai bà sau này sẽ được lưu danh trong quốc sử vì có nhiều công lao giúp nước”. Hữu Thế tò mò hỏi: “Sông gì sáng thế?”. Người con trai bảo : “Cậu sẽ nổi danh vì sông nước mà không biết sông này ư!”. Nói rồi người con trai vỗ tay cho con sông cuộn sóng cao ngất: “Đó là sông Ngân Hà. Ta sẽ còn bảo trâu thần, cày thần xuống giúp đất Bàng Hà sau vài bốn trăm năm nữa”. Chợt trên sông Ngân rợp tiếng quạ kêu. Chúng vừa bay đầy trời vừa đan kết thành cây cầu Ô Thước. Ngưu Lang nhẹ nhàng bảo Chức Nữ: “Thôi ta về”. Cô gái mỉm cười đi theo, đằng sau là con trâu trắng. Thế là tan giấc mộng.Tài năng Hữu Thế ngày một nổi tiếng. Trần Hưng Đạo trọng dụng và đặt tên là Yết Kiêu. Cùng với Dã Tượng là tướng tài lục quân, Yết Kiêu là tướng sông nước. Hai ông được Trần Hưng Đạo coi là gia nô, cận vệ trung thành, tài trí và mưu lược. Có phen chặn giặc ở biên giới, địch mạnh ta phải lui. Hưng Đạo vương định lui quân theo đường chân núi, Dã Tượng can vì đoán có quân Nguyên mai phục. Song rút đường sông thì biết tìm đường nào? Yết Kiêu đi dò đường từ hôm trước đã đợi ở bãi Tân. Khi Trần Hưng Đạo quay khỏi núi về đường thủy trời đã mờ tối, nhìn bến nước mờ ảo vẫn có con thuyền nhỏ đứng đợi và sau đó đưa Vương rút lui an toàn. Kỵ binh giặc Nguyên không hiểu quân Trần có tài thăng thiên hay là độn thổ nữa. Đại vương Hưng Đạo cả mừng mà rằng: “Chim Hồng hộc bay được cao và xa là nhờ 6 cái trụ lông cánh, nếu không khác gì chim thường. Yết Kiêu, Dã Tượng là cánh chim hồng hộc của ta”.

Giữa Trần Liễu (phụ thân Trần Hưng Đạo) và em là Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông) có mối bất hòa lớn do Thái sư Trần Thủ Độ ép Trần Liễu nhường vợ cho Trần Cảnh. Trần Liễu đã nói với Trần Hưng Đạo là phải vì cha mà lấy thiên hạ. Khi thế nước lung lay, quyền bính quân quốc đều nằm ở trong tay mình, con Trần Hưng Đạo là Trần Quốc Tảng khuyên cha thực hiện ý đồ của ông nội. Ý đã quyết, nhưng Trần Hưng Đạo vẫn muốn thử lòng 2 gia nô cật ruột là Yết Kiêu và Dã Tượng, cả hai đều can.

Yết Kiêu có công lớn trong sự nghiệp đánh giặc Nguyên, được vua Trần phong tặng: “Trần triều Hữu tướng Đệ nhất bộ đô soái thủy quân, Tước hầu”.

Chuyện đánh giặc của Yết Kiêu được dân làng Lôi Động kể rất nhiều. Người người còn nhớ mãi chuyện ông dùng tài lặn đánh đắm thuyền giặc, bị bắt còn lừa được giặc nhảy xuống sông thoát….Lần ấy, ông có nhiệm vụ khóa đuôi một cuộc hành quân đường thủy. Thuyền lương đi chậm quá, ngoặt sang khúc sông khác thì thuyền địch đến. Những tên giặc Nguyên mình trần đầu trọc, thấy thuyền Yết Kiêu chỉ có một mình ông, chúng hò nhau đuổi hòng bắt sống ông.Chúng hí hố reo mừng, cá tươi, thịt béo, rượu nồng ngả ra kín đặc quanh Yết Kiêu. Bất ngờ, ông xuống tấn khiến thuyền lật úp. Quân Nguyên chờ mài không thấy ông nổi lên, rà đáy sông, buông lưới vẫn không thấy gì. Về đến quân doanh nhà Trần, ông mới tươi cười kể: Lúc đó có con cá chép cực lớn lượn qua, ông đã leo lên mình cá, bơi nhanh thoát ra khỏi vòng vây. Từ khi có hai chiếc lông trâu của Ngưu Lang, Yết Kiêu có tài bầu bạn với cá nước như với người.

Ở quê Hạ Bì, dân làng đã làm con cá chép bằng gỗ quý, mình dài 1m20, giữa thân đường kính 28cm, đục rỗng. Vây, vẩy được cách điệu bằng các hoa văn trang trí sinh động. Đầu cá to, râu dài vắt hai bên mép, miệng há to vểnh lên trông rất ngộ nghĩnh và độc đáo.Yết Kiêu từng tháp tùng đoàn sứ bộ sang cống nhà Nguyên. Vì phục tài, quý đức trung hiền của Yết Kiêu mà vua Nguyên bỏ cả hiềm khích, cho công chúa và chục nàng hầu đến dinh sứ bộ để hầu hạ từng người. Vua Nguyên mật lệnh cho công chúa phải có con trai với tướng nhà Trần và tìm cách nếu có thể thì giữ chân Yết Kiêu lại. Éo le thay, Yết Kiêu thì vô tình mà công chúa thì hữu ý. Nàng cảm phục người con trai đất Bàng Hà, rồi đem lòng yêu thương, thầm nguyện theo hầu chăn gối…Sự tình chẳng ai hay, đoàn sứ bộ vẫn làm tròn phận sự rồi mãn hạn ra về. Yết Kiêu lại tháp tùng đoàn chu đáo và cẩn trọng…Công chúa nhà Nguyên đâm nhớ thương, tủi hờn, oán vua cha, trách thân trách phận. Thế rồi, nàng mặt mày ủ ê, sầu thảm…

Những vần thơ được lưu truyền đến ngày nay, tương truyền được công chúa nhà Nguyên ngâm ngợi và thêu vào khăn áo gửi theo đoàn sứ bộ Đại Việt:

Độc thượng giang lâu tứ liễu nhiên Nguyệt quang như thủy, thủy như thiên Đồng lai vọng nguyệt nhân hà xứ Phong cảnh y hy tự khứ niên.

Cao lão ở làng Lôi Động phỏng dịch là:

Lên lầu dạ thấy bồi hồi Trăng soi bóng nước, nước trời hòa nhau Cùng ta thưởng nguyệt đêm nao Bây giờ đã ở phương nào, người ơi ?!

Và lại nữa:

Dục biệt khiên Lang Y Lang kim đáo hà xứ Bất hận quy lai trì Mạc hướng lâm cùng khứ.

Có lời dịch là:

Dứt áo phút ly biệt Thiếp hỏi chàng đi đâu Chẳng hận về sai hẹn Chỉ mong chớ phụ nhau.

Rồi công chúa nhà Nguyên ốm to. Vua Nguyên cuống lên, ra chỉ để công chúa sang thăm Đại Việt, cầu hôn Yết Kiêu. Sang đến vùng biên giới (Móng Cái bây giờ) thì nàng được tin Yết Kiêu đã tạ thế. Nàng bèn sai lập đàn để cầu siêu cho “ linh hồn”Yết Kiêu tịnh độ. Lại tự lập đàn cầu siêu cho mình, rồi công chúa quyên sinh trên đất Đại Việt…Đáng thương cho công chúa nhà Nguyên, nàng có biết đâu, cái ngón “mỹ nhân kế” của vua cha, sang Đại Việt gặp phải người sắt đá, anh hùng…đâu có lụy nữ nhi thường tình mà mắc vào bẫy, sa vào mưu chước hậu chiến của giặc Nguyên. Yết Kiêu nghe tin, cũng thật thương cho người con gái đài các cao sang mà nhẹ dạ.

Đời sau, ở đền Quát (nơi thờ Yết Kiêu đến bây giờ) dân làng cũng lấy đá tạc 9 nàng hầu và 2 vệ sĩ để thờ vọng hương hồn người đã trao mối chân tình với Yết Kiêu. Thực ra, có lẽ do xuất thân từ thường dân, chức phận gia nô, nên sử sách không ghi nhiều về Yết Kiêu (?!). Nhưng đối với nhân dân, tướng quân Yết Kiêu-Phạm Hữu Thế sống trong huyền thoại và dã sử, sống mãi trong lòng dân muôn đời. Những câu chuyện trên đây là minh chứng cho nhận định ấy và được truyền bá rộng rãi nơi quê hương ông và cả nững nơi ông đã từng đánh giặc giữ nước./.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://hophamvietnam.com/A3D761_6322fC2E

Yết Kiêu là tuỳ tướng của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Ông tên thật là Phạm Hữu Thế. Quê ở làng Hạ Bì, huyện Gia Phúc (nay là thôn Hạ Bì, xã Yết
**Yết Kiêu** (chữ Hán: 歇驕; 1242-1303) tên thật là **Phạm Hữu Thế**, quê ở làng Hạ Bì, xã Yết Kiêu, huyện Gia Lộc, nay là huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Cùng với Cao Mang,
Mùa thu này, làng quê Hạ Bì thuộc xã Yết Kiêu (Gia Lộc - Hải Dương) lại tràn ngập không khí náo nức, tươi vui trong thời gian diễn ra lễ hội Đền Quát. Năm
**Phạm** là một họ thuộc vùng Văn hóa Đông Á, phổ biến ở Việt Nam. Chữ Phạm ở đây theo tiếng Phạn cổ thì đó là chữ "Pha" hoặc chữ "Pho" có nghĩa là "Thủ
**Xung đột giành quyền kiểm soát tại Quần đảo Trường Sa 1988**, hay còn gọi là **Hải chiến Trường Sa** hoặc **Xung đột Trường Sa** là sự kiện xung đột tại khu vực quần đảo
**Phạm Ngọc Lan** (1934–2019) là một tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Tuy nhiên, ông thường được nhiều người biết đến với tư cách là phi công Việt Nam đầu
**Hoạn quan** (chữ Nho: 宦官) hay **quan hoạn** là người đàn ông do khiếm khuyết ở bộ phận sinh dục nên không thể có gia đình riêng, được đưa vào cung vua chúa để hầu
**Hai Bà Trưng** là một quận trung tâm của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hai Bà Trưng nằm ở trung tâm thành phố Hà Nội, có vị trí địa lý:
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
**Quân sự nhà Trần** phản ánh việc tổ chức quân đội của vuơng triều Trần trong lịch sử Việt Nam. Hoạt động quân sự nhà Trần diễn ra ở cả trong nước lẫn bên ngoài
Ngày 25/3/2023, Hội đồng họ Phạm tỉnh Hải Dương đã tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động 2 năm 2021- 2022, thống nhất phương hướng hoạt động chủ yếu năm 2023.Tham dự Hội nghị
**Ninh Kiều** là quận trung tâm cũ của thành phố Cần Thơ, Việt Nam. Quận Ninh Kiều là nơi tập trung chủ yếu các cơ quan ban ngành và là trung tâm kinh tế, văn
**Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa khác nhau thế giới, hình ảnh con
**Tả Lương Ngọc** (chữ Hán: 左良玉, 1599 – 1645), tên tự là **Côn Sơn**, người Lâm Thanh, Sơn Đông, là tướng lĩnh cuối đời Minh trong lịch sử Trung Quốc. ## Phòng vệ Liêu Đông
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
**Lý Tự Nguyên** (李嗣源, sau đổi thành **Lý Đản** (李亶)) (10 tháng 10 năm 867), còn được gọi theo miếu hiệu là **Hậu Đường Minh Tông** ( 后唐明宗), là hoàng đế thứ hai của nhà
Sách “binh chế chí” trong bộ “lịch triều hiến chương loại chí” của nhà bác học phan huy chú ghi lại câu tục ngữ truyền tụng trong dân gian cuối thời lê trung hưng “đánh
**Mạnh Tri Tường** (, 10 tháng 5 năm 874 gọi theo miếu hiệu là **Hậu Thục Cao Tổ** (後蜀高祖), là vị quân chủ khai quốc của nước Hậu Thục thời Ngũ Đại Thập Quốc. Thoạt
**Phạm Huy** (1470 - ?) là một tiến sĩ dưới thời vua Lê Thánh Tông, từng làm đến chức Công Bộ đô cấp. Sau khi ông qua đời, nhiều lần được vua các triều Lê,
**Ngụy Bác quân tiết độ sứ** hay **Thiên Hùng quân tiết độ sứ** (763 - 915), là một phiên trấn tồn tại dưới thời trung và hậu kì nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc,
**Hình tượng con ngựa** hiện diện từ sớm trong văn hóa Đông-Tây, con ngựa là một trong những loài vật được con người thuần hóa và sử dụng trong đời sống hàng ngày và loài
**Hoàn Kiếm** là một quận cũ, trung tâm của thành phố Hà Nội, Việt Nam. Tên quận được đặt theo tên của hồ Hoàn Kiếm. Quận Hoàn Kiếm là trung tâm hành chính, chính trị,
**Biểu tượng cảm xúc** (tiếng Anh: emoticon /ɪˈməʊ.tɪ.kɒn/ US /ɪˈmoʊ.t̬ə.kɑːn/), viết tắt cho “emotion icon”, cũng được gọi đơn giản là emote, là một hình ảnh đại diện của các biểu hiện trên gương mặt
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Trịnh Sâm** (chữ Hán: 鄭森, 9 tháng 2 năm 1739 – 13 tháng 9 năm 1782), thụy hiệu **Thánh Tổ Thịnh vương** (聖祖盛王), là vị chúa thứ 8 của vương tộc Trịnh cầm quyền ở
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Chiến dịch CQ-88** (tên đầy đủ là **Chiến dịch Chủ quyền 1988**) là một chuỗi các hoạt động quân sự trên biển Đông do Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam tiến hành từ
**Nhà Tây Sơn** (chữ Nôm: 家西山, chữ Hán: 西山朝 / **Tây Sơn triều**) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam tồn tại từ năm 1778 đến năm 1802, được thành lập
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Hạng Tịch** (chữ Hán: 項籍; 232 TCN - 202 TCN), biểu tự là **Vũ** (羽), do đó ông được biết đến rộng rãi qua cái tên **Hạng Vũ** (項羽) hoặc **Tây Sở Bá vương** (西楚霸王),
**Trịnh Doanh** (chữ Hán: 鄭楹, 4 tháng 12 năm 1720 – 12 tháng 5 năm 1767), thụy hiệu **Nghị Tổ Ân vương** (毅祖恩王), là vị chúa Trịnh thứ 7 thời Lê Trung hưng trong lịch
**Tống Nhân Tông** (chữ Hán: 宋仁宗, 12 tháng 5, 1010 - 30 tháng 4, 1063), tên húy **Triệu Trinh** (趙禎), là vị hoàng đế thứ tư của nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc,
nhỏ|Ảnh chụp bản gốc Chiếu thoái vị tại Trung tâm lưu trữ quốc gia III. **Bản Chiếu thoái vị của Bảo Đại** chính thức chấm dứt 143 năm Nhà Nguyễn cai trị cũng như chế
**Lý Thạnh** (chữ Hán: 李晟, 727 – 793), tên tự là **Lương Khí**, người Lâm Đàm, Thao Châu , là tướng lĩnh trung kỳ nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc. Ông tham gia trấn
**Bá Nhan** (chữ Hán: 伯颜, chữ Mông Cổ: ᠪᠠᠶᠠᠨ, chuyển ngữ Poppe: Bayan, chữ Kirin: Баян, 1236 – 11/01/1295), người Bát Lân bộ (Baarin), dân tộc Mông Cổ, là tướng lĩnh nhà Nguyên trong lịch
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
**_Thanh sử cảo_** (清史稿) là bản thảo một bộ tư liệu lịch sử về thời nhà Thanh, bắt đầu từ khi Nỗ Nhĩ Cáp Xích (hay Thanh Thái Tổ) lập ra nhà Thanh vào năm
**Đợt sắp xếp, sáp nhập đơn vị hành chính tại Việt Nam 2023–2030** đề cập đến cuộc sắp xếp, sáp nhập các đơn vị hành chính (ĐVHC) các cấp tại Việt Nam thực hiện trong
**Hà Đông** là một quận nội thành cũ của thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Quận Hà Đông nằm ở phía tây nam nội thành của thủ đô Hà Nội, nằm cách
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
**Giuse Maria Trịnh Như Khuê** (11 tháng 12 năm 1898 – 27 tháng 11 năm 1978) là một hồng y thuộc Giáo hội Công giáo Rôma và là hồng y tiên khởi của Việt Nam. Khẩu
**Mạc Thái Tổ** (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 12, 1483 – 11 tháng 9, 1541), tên thật là **Mạc Đăng Dung** (莫登庸), là một nhà chính trị, vị hoàng đế sáng lập ra vương triều
**Bảo Đại** (chữ Hán: , 22 tháng 10 năm 1913 – 31 tháng 7 năm 1997), tên khai sinh là **Nguyễn Phúc (Phước) Vĩnh Thụy** (), là vị hoàng đế thứ 13 và là vị
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Đường Cao Tông** (chữ Hán: 唐高宗, 21 tháng 7 năm 628 - 27 tháng 12 năm 683) là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Sự kiện Tết Mậu Thân** (sách báo Việt Nam thường gọi là **_Tổng công kích và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968_**) là cuộc tổng tiến công và vận động quần chúng nổi dậy giành
**Đường Huyền Tông** (chữ Hán: 唐玄宗, bính âm: Xuánzōng ; 8 tháng 9, 685 tên thật là **Lý Long Cơ**, có thời điểm gọi là **Võ Long Cơ** () trong giai đoạn 690 - 705,
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Đặng Tiến Đông** (1738–1794 hay 1797) làm quan thời Lê – Trịnh, sau đầu quân Tây Sơn và trở thành danh tướng của lực lượng này. Thân thế và sự nghiệp của ông hiện vẫn
**Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần 2** là cuộc chiến tranh giữa Đại Nguyên và Đại Việt diễn ra trên lãnh thổ Đại Việt từ cuối tháng 1 đến cuối tháng 5 năm