thumb|Tháp chỉ huy [[tàu ngầm USS U-3008 (nguyên là tàu ngầm Đức U-3008), với ống hơi nhô lên]]
Ống hơi tàu ngầm (tiếng Anh: snorkel, tiếng Đức: schnorchel) là một thiết bị cho phép tàu ngầm hoạt động ngầm dưới nước trong khi vẫn hút không khí trên mặt nước. Là một sáng kiến của các kỹ sư Hà Lan, chúng bắt đầu được sử dụng rộng rãi trên những tàu ngầm U-boat Đức vào giai đoạn cuối của Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Lịch sử
thumb|right|Đầu ống hơi trang bị cho [[U-3503 (tàu ngầm Đức)|U-3503, bị đánh đắm tại Gothenburg vào ngày 8 tháng 5, 1945, được Hải quân Thụy Điển trục vớt và nghiên cứu nhằm cải tiến thiết kế tàu ngầm của họ trong tương lai]]
Cho đến khi tàu ngầm chạy năng lượng hạt nhân ra đời, tàu ngầm được thiết kế để hoạt động trên mặt nước trong phần lớn thời gian, và chỉ lặn để ẩn nấp hay tấn công vào ban ngày. Cho đến khi radar được sử dụng rộng rãi từ năm 1940, vào ban đêm tàu ngầm an toàn hơn khi ở trên mặt nước so với đi ngầm, vì sonar có thể phát hiện tàu dưới mặt nước nhưng hầu như không thể phát hiện tàu nổi. Tuy nhiên khi kỹ thuật radar ngày càng được hoàn thiện khi xung đột tiếp diễn, tàu ngầm (đặc biệt là U-boat Đức Quốc Xã tại Đại Tây Dương) buộc phải dành nhiều thời gian hơn dưới mặt nước, chạy bằng động cơ điện với tốc độ chỉ vài knot và tầm xa rất hạn chế.
Ngay vào thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ nhất, một kiểu ống hơi tàu ngầm ban đầu được James Richardson, Phụ tá Quản đốc tại hãng đóng tàu Scotts Shipbuilding and Engineering Company, Greenock, Scotland sáng chế vào năm 1916. Mặc dù công ty có được bằng sáng chế Anh cho thiết kế này, chúng không được Bộ Hải quân Anh chấp nhận cho sử dụng cùng Hải quân Hoàng gia Anh.
Vào tháng 11, 1926, Đại tá Hải quân Pericle Ferretti thuộc Phòng kỹ thuật Hải quân Ý đã thử nghiệm với một ống thông hơi trang bị trên tàu ngầm H 3. Thử nghiệm khá thành công, và một hệ thống tương tự được thiết kế cho lớp Sirena nhưng cuối cùng bị tháo dỡ. Các hệ thống ống hơi sau này không dựa trên thiết kế của Ferretti.
Vào năm 1938, Hải quân Hoàng gia Hà Lan thử nghiệm với một hệ thống ống đơn giản trên các tàu ngầm O-19 và O-20 cho phép các tàu ngầm vận hành động cơ diesel ở độ sâu kính tiềm vọng đồng thời nạp lại điện cho ắc-quy. Hệ thống này được kỹ sư Hà Lan Jan Jacob Wichers thiết kế. của Hà Lan được trang bị một thiết bị như vậy mang tên snuiver (ống hít).
Khi Đức Quốc Xã xâm chiếm Hà Lan vào năm 1940; việc chiếm được các tàu ngầm O-25 và O-26 là một dịp may cho Hải quân Đức. Thoạt tiên họ chỉ thấy đây là công cụ giúp hút không khí sạch trao đổi vào bên trong tàu. Mãi cho đến năm 1943, khi có nhiều U-boat bị mất trên biển, họ mới tận dụng ống hơi để chạy động cơ diesel ngầm dưới biển, và tái trang bị cho nhiều chiếc thuộc Type VIIC và Type IXC sẵn có, cũng như đưa vào thiết kế các Type XXI và Type XXIII mới.
Tàu ngầm U-boat đầu tiên được trang bị ống hơi là chiếc U-58, đã tiến hành lặn thử nghiệm tại khu vực biển Baltic vào mùa Hè năm 1943. Nó được đưa vào hoạt động vào đầu năm 1944, và cho đến tháng 6 năm đó khoảng một nữa số U-boat đặt căn cứ tại bờ biển Pháp phía Đại Tây Dương đã được trang bị ống hơi. Trên Type VII ống hơi được xếp về phía trước và chứa trong một ngăn trong thân bên mạn trái; còn trên Type IX ống hơi chứa trong một ngăn trong thân bên mạn phải. Type XXI và Type XXIII có ống hơi kéo dài được, nhô lên thẳng đứng từ tháp chỉ huy bên cạnh kính tiềm vọng.
Giới hạn hoạt động
Cho dù ống hơi cho phép tàu ngầm sử dụng động cơ diesel trong khi đi ngầm dưới nước, việc sử dụng có một số giới hạn và vấn đề phát sinh. Tàu ngầm U-boat với ống hơi nhô lên bị giới hạn tốc độ chỉ có để ống hơi không bị hư hại hay vỡ. Thiết bị dò âm theo mảng pha Gruppenhorchgerät không thể hoạt động khi vận hành động cơ diesel ngầm dưới nước.
Tuy nhiên, hiệu ứng nghiêm trọng nhất xảy ra khi sử dụng ống hơi là khả năng tạo ra chân không bên trong chiếc tàu ngầm. Những ống hơi đầu tiên trang bị van nổi (ballcock) tự động nhằm ngăn ngừa nước biển bị hút vào động cơ diesel khi biển động lúc thời tiết xấu. Khi van đóng mà động cơ vẫn tiếp tục chạy sẽ hút không khí bên trong tàu. Áp lực không khí trong tàu giảm bất ngờ sẽ khiến thủy thủ đau tai, thâm chí vỡ màng nhĩ; và chênh lệch áp suất khiến van nổi bị khóa chặt, buộc con tàu phải tắt động cơ diesel và trồi khẩn cấp lên mặt biển.
Vấn đề này tiếp tục tồn tại ngay cả với tàu ngầm hiện đại; tuy nhiên hiệu ứng này được giảm nhẹ bằng cách trang bị cảm biến chân không, sẽ tự động tắt động cơ diesel nếu có hiện tượng giảm áp suất đột ngột. Thiết kế ống hơi hiện đại cũng trang bị mạch điều khiển một bơm áp lực, giữ cho van nổi mở chống lại lực kéo của lò so. Cảm biến sẽ đóng van nếu cảm nhận có cơn sóng biển, rồi tự động mở lại khi không còn nước.
Vì ống hơi được thiết kế để hút không khí bên ngoài đồng thời xả thoát khí thải của động cơ diesel, khí thải có thể nhìn thấy từ khoảng cách cho đến . Ngoài ra sóng tạo ra bởi ống hơi hay kính tiềm vọng di chuyển trên mặt nước cũng dễ bị phát hiện khi biển lặng. Vào những ngày đầu của Trận chiến Đại Tây Dương trong Thế Chiến II, radar Type 271 có thể phát hiện kính tiềm vọng của tàu ngầm đang lặn ở khoảng cách trong một thử nghiệm vào năm 1940.
👁️
1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Tháp chỉ huy [[tàu ngầm USS _U-3008_ (nguyên là tàu ngầm Đức _U-3008_), với ống hơi nhô lên]] **Ống hơi tàu ngầm** (tiếng Anh: snorkel, tiếng Đức: schnorchel) là một thiết bị cho phép tàu
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
**Lớp Kilo** là tên định danh của NATO chỉ một loại tàu ngầm quân sự chạy bằng diesel-điện cỡ lớn được chế tạo tại Nga. Tên gọi chính thức của Nga đặt cho lớp tàu
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_Mališan_** (số hiệu: P-901) là một tàu ngầm cỡ nhỏ lớp CB của Hải quân Cộng hòa Xã hội Ý trong Thế chiến II và của Hải quân Nam Tư () từ năm 1953 đến
Tàu ngầm **_lớp Virginia_**, hay **lớp SSN-774**, là một loại tàu ngầm tấn công nhanh, chạy bằng năng lượng hạt nhân, mang tên lửa hành trình đang được trang bị cho Hải quân Mỹ. Tàu
nhỏ|260x260px|Một chiếc tàu ngầm Typhoon 3 **Tàu ngầm** hay **tầu ngầm**, còn gọi là **tiềm thủy đĩnh**, là một loại tàu đặc biệt hoạt động dưới nước. Nhiều quốc gia có lực lượng hải quân
**Tàu ngầm Klasse XXIII** "Elektroboot" là loại tàu ngầm ven bờ (coastal submarine) được thiết kế để hoạt động tại các vùng biển như: Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải, nơi mà
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
**_U-415_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
Tầu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp **Akula**, tên định danh của Liên Xô là **Project 971 _Shchuka-B**_ (, tên định danh của NATO là _**Akula**_) là tàu ngầm tấn công
**_U-573_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
_U-166_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó chỉ thực
_U-175_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_U-57_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**_U-58_** là một tàu ngầm duyên hải thuộc phân lớp Type IIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Những tàu ngầm Type II vốn quá nhỏ
**_Lớp tàu ngầm Seawolf_** là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) sử dụng năng lượng hạt nhân, là lực lượng nòng cốt của đội tàu ngầm của Hải quân Liên bang Mỹ (USN).
**Tàu ngầm lớp I-201** là một loại tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai. Loại tàu ngầm được thiết kế nâng cao để có thể di
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
thumb|_Nautilus_. **_Nautilus_** là một tàu ngầm hư cấu có thuyền trưởng là Nemo trong các tiểu thuyết của nhà văn Jules Verne _Hai vạn dặm dưới biển_ và _Hòn đảo bí mật_ (1874). Verne đã
Tàu ngầm lớp **Yasen**, định danh của Nga là **Project 885 Yasen** và **Project 885M Yasen-M** (, Tên ký hiệu của NATO: **Severodvinsk**), hay cũng thường được nhắc đến là tàu ngầm lớp **_Graney_**, là
**Tàu ngầm Type IXA** là một phân lớp của Type IX được Hải quân Đức Quốc xã chế tạo vào các năm 1935-1936 như những tàu ngầm đại dương hoạt động tầm xa. Khái niệm
**_U-507_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-505_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-74_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIB được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_U-575_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
U-boat **Type VII** là kiểu tàu ngầm thông dụng nhất của Hải quân Đức Quốc Xã trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, với 703 chiếc được chế tạo vào lúc cuộc xung đột kết
**Tàu ngầm Đề án 658** là loại tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo được đưa vào sử dụng bởi Liên Xô trong những năm 1959. NATO gọi loại tàu ngầm này là
nhỏ|Tàu Komsomolets - K 278 năm 1981 **Sự cố tàu ngầm Komsomolets** xảy ra vào ngày 7 tháng 4 năm 1989 là một tai nạn về kỹ thuật của tàu ngầm nguyên tử Komsomolets của
**_I-52_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_U-262_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
_U-154_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-309_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-315_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-251_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-125_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-66_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
_U-176_ là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-514_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-512_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_U-522_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-521_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã thực
**_U-312_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1943, nó đã thực
**_U-29_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1936, nó đã thực
**_I-74_**, sau đổi tên thành **_I-174_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một