✨U-570 (tàu ngầm Đức)

U-570 (tàu ngầm Đức)

U-570 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực hiện được một chuyến tuần tra duy nhất và bị Hải quân Hoàng gia Anh chiếm được vào ngày 27 tháng 8, 1941, thu được những thông tin tình báo có giá trị. Đại úy Rahmlow, lúc đó có mặt trên cầu tàu, nghe thấy tiếng động cơ chiếc Hudson đang tiếp cận, nên ra lệnh lặn khẩn cấp. U-570 chưa chìm hoàn toàn xuống nước khi chiếc Hudson của Thompson đến nơi và thả bốn quả mìn sâu tấn công.

U-570 nhanh chóng trở lên mặt nước và có khoảng 10 thủy thủ xuất hiện trên boong. Chiếc Hudson tiếp tục tấn công bằng hỏa lực súng máy, nhưng ngừng bắn sau khi thủy thủ trên chiếc U-boat vẫy một lá cờ trắng ra dấu đầu hàng. Các tù binh Đức sau này khai báo rằng các vụ nổ của mìn sâu đã hầu ngư làm lật nghiêng con tàu, gây mất điện, hỏng thiết bị, rò rỉ nước và ô nhiễm không khí trên tàu. Các thủy thủ không có kinh nghiệm cho rằng sự ô nhiễm là do khí chlorine bị rò rỉ từ ắc-quy nhiễm nước biển, nên các thủy thủ phòng máy đã hoảng loạn chạy ra phía trước để tránh ô nhiễm. Lẽ ra việc phục hồi nguồn điện để cung cấp cho động cơ và chiếu sáng có thể giải quyết được vấn đề, nhưng không còn ai ở lại phòng máy để làm việc đó. Chiếc tàu ngầm bất động dưới nước trong bóng tối, và Rahmlow tin rằng khí chlorine sẽ độc hại nếu ở lại dưới nước, nên quyết định trồi lên mặt biển. Hoàn cảnh biển động mạnh khiến các thủy thủ không thể vận hành các vũ khí phòng không trên boong, nên họ vẫy cờ trắng để ngăn một đợt tấn công khác bằng mìn sâu, mà không biết rằng chiếc Hudson đã thả hết số mìn sâu mà nó có.

Phần lớn thủy thủ của chiếc tàu ngầm đã ở trên boong tàu khi máy bay của Thompson lượn vòng chung quanh, giờ đây còn có thêm một chiếc Hudson thứ hai vốn đang trên đường từ Scotland đến Iceland nhưng đã tách khỏi lộ trình để đi đến trợ giúp. Một bức điện của Thompson yêu cầu trợ giúp đã huy động thêm được một thủy phi cơ Catalina PBY thuộc Liên đội 209 RAF xuất phát từ Reykjavík, Iceland; bay đến hiện trường ba giờ sau đó. Thủy thủ đoàn Đức báo cáo tình huống về Bộ chỉ huy Tàu ngầm Đức, phá hủy máy vô tuyến, đập vỡ máy Enigma rồi ném các bộ phận cùng các bảng mật mã xuống biển. Đô đốc Dönitz kể lại trong hồi ký của ông rằng ông đã ra lệnh cho các tàu U-boat khác trong khu vực đi đến trợ giúp cho U-570 sau khi nhận được báo cáo; U-82 đã hồi đáp, nhưng máy bay tuần tra Đồng Minh đã ngăn trở U-82 có thể tiếp cận U-570. thumb|U-570 cùng một tàu đánh cá vũ trang của Hải quân Anh, ảnh chụp từ một thủy phi cơ Catalina Bức điện của U-570 được gửi đi bằng bạch văn (không mã hóa) nên phía Anh đã chặn bắt được. Đô đốc Percy Noble, Tư lệnh Bộ chỉ huy Tiếp cận phía Tây, lập tức ra lệnh cho nhiều tàu chiến nhanh chóng đi đến hiện trường. Đến xế trưa, các chiếc Hudson buộc phải quay trở lại Iceland do đã cạn nhiên liệu. Chiếc Catalina, với khả năng tuần tra tầm xa, được lệnh canh chừng chiếc tàu ngầm cho đến khi tàu chiến Đồng Minh đi đến nơi. Nếu không có chiếc nào xuất hiện sau khi mặt trời lặn, chiếc máy bay sẽ ra lệnh cho thủy thủ U-570 bỏ tàu, rồi đánh chìm mục tiêu. Chiếc tàu đầu tiên đi đến hiện trường, tàu đánh cá vũ trang chống ngầm HMT Northern Chief, đi đến nơi lúc khoảng 22 giờ 00 sau khi được dẫn đường bởi pháo sáng thả từ chiếc Catalina. Sau đó chiếc thủy phi cơ quay trở về Iceland sau khi lượn vòng bên trên U-570 trong suốt 13 giờ.

Các thủy thủ Đức tiếp tục ở lại bên trên U-570 suốt đêm; họ không tìm cách đánh chìm chiếc U-boat vì Northern Chief đã gửi tín hiệu cảnh báo sẽ nổ súng và không cứu vớt những người sống sót nếu họ làm như vậy. Hạm trưởng của Northern Chief được lệnh ngăn ngừa chiếc tàu ngầm bị đánh chìm bằng mọi cách. Trong đêm có thêm năm tàu Đồng Minh đi đến hiện trường: tàu đánh cá vũ trang Kingston Agate, các tàu săn cá voi vũ trang HMS Wastwater và HMS Windermere, tàu khu trục Anh , và tàu khu trục Canada .

Lúc bình minh, các bên bắt đầu trao đổi bằng tín hiệu đèn. U-570 liên tục yêu cầu được di tản khỏi tàu vì họ không thể tiếp tục ở lại trên tàu, nhưng phía Anh từ chối cho đến khi các thủy thủ Đức khắc phục được tình trạng ngập nước của chiếc U-boat, do lo sợ rằng phía Đức sẽ để mặc cho con tàu bị chìm sau khi họ được giải cứu. Tình hình càng thêm rắc rối khi một thủy phi cơ Northrop N-3PB thuộc Liên đội 330 Không quân Hoàng gia Na Uy xuất hiện. Không biết rằng chiếc tàu ngầm đã đầu hàng, nó tấn công U-570 bằng nhiều quả bom nhỏ và bắn phá Northern Chief, vốn đã chống trả. May mắn không có hư hại gì và Burwell ra lệnh cho chiếc máy bay rút lui qua vô tuyến.

Tình trạng thời tiết trở nên xấu hơn, nhiều nỗ lực nhằm nối một dây cáp kéo U-570 đêu thất bại. Cho rằng các thủy thủ Đức đã ngăn trở hoạt động này, hạm trưởng của Burwell S.R.J. Woods ra lệnh bắn súng máy cảnh cáo, nhưng vô tình bắn trúng và làm bị thương nhẹ năm thủy thủ của U-570. Sau khi gặp nhiều khó khăn, Đại úy H.B. Campbell cùng ba thủy thủ của Kingston Agate đi sang chiếc tàu ngầm bằng bè cứu sinh. Sau cuộc tìm kiếm nhanh mà không thấy máy Enigma của chiếc U-boat, họ nối được một dây cáp để kéo rồi cho chuyển năm người bị thương cùng các sĩ quan của chiếc tàu ngầm sang chiếc Kingston Agate. Các thủy thủ còn lại được đưa lên tàu khu trục HMCS Niagara, vào lúc này đã áp sát bên mạn U-570.

Các con tàu bắt đầu di chuyển chậm về phía Iceland với U-570 được kéo đi, trong khi các máy bay Hudson và Catalina liên tục tuần tra trên không. Họ đi đến Þorlákshöfn vào sáng sớm ngày 29 tháng 8, nơi U-570 được cho mắc cạn bên bờ biển vì nó đã bị ngập nhiều nước vào bên trong tàu và có nguy cơ bị đắm.

Trục vớt và sửa chữa

Hai ngày sau, Đại úy George Robson Colvin, một hạm trưởng tàu ngầm người Anh cùng một nhóm hạ sĩ quan và chuyên viên kỹ thuật dân sự đi đến Þorlákshöfn để khảo sát U-570, vốn bị nghiêng nặng qua mạn phải. Họ phục hồi ánh sáng bên trong tàu và cho nó nổi trở lại trước khi kéo nó đến căn cứ hải quân Anh tại Hvalfjörður. Tại đây nó được cho cặp bên mạn chiếc tàu kho chứa HMS Hecla để sửa chữa, với mục tiêu có thể đi đến Anh bằng chính động lực của mình. Phía Anh khám phá rằng những hư hại gây ra bởi quả mìn sâu không quá nghiêm trọng, chỉ gây ra những lổ thủng trên các thùng dằn và một lổ thủng ở thùng nhiên liệu. Khoảng 1/3 số ắc-quy bị nứt vỡ và mũi tàu bị hư hại; nước tràn vào bên trong tàu qua một van bị hư hại bởi các vụ nổ và qua các đồng hồ đo bị vỡ kính. Những hư hại khác đều là nhẹ và không có chứng cứ về việc khí chlorine bị rò rỉ. Một thủy thủ đoàn có kinh nghiệm sẽ nhanh chóng thực hiện những sửa chữa tạm thời, giúp con tàu tiếp tục lặn dưới nước và có thể tránh bị không kích.

Sau khi đầu hàng, thủy thủ đoàn Đức đã cố gắng phá hủy những thiết bị mật. Tuy nhiên ngoại trừ máy vô tuyến và máy tính điều khiển hỏa lực ngư lôi, các thiết bị khác chỉ bị hư hại nhẹ. Ngoài ra các tài liệu mật đã không bị tiêu hủy; bản sao của các bức địện mã hóa và bản bạch văn bằng tiếng Đức tương ứng được tìm thấy, vốn hữu ích cho những nỗ lực giải mã máy Enigma của phía Anh. Một tài liệu khác rất có giá trị là sổ tay của hạm trưởng, cung cấp chi tiết và ý nghĩa của các bức địện mã hóa. Phía Anh, vốn không quen thuộc với những quy trình của Hải quân Đức, thường thấy khó hiểu đối với những thông tin trao đổi của đối thủ ngay cả khi đã được giải mã.

U-570 trải qua ba tuần lễ tại Hvalfjörður, được sửa chữa và thực hiện những chuyến đi ngắn nhằm thử nghiệm động cơ và hệ thống lái. Từ ngày 23 đến ngày 26 tháng 9, con tàu được hai sĩ quan Hải quân Hoa Kỳ, vốn được gửi từ Anh đến Iceland, xem xét tỉ mỉ. Một quả ngư lôi G7a được tháo dỡ khỏi tàu để chuyển giao cho Hải quân Hoa Kỳ, và sau đó được đưa về Hoa Kỳ để nghiên cứu. thumb|right|U-570 đi đến cảng [[Barrow-in-Furness, 3 tháng 10, 1941]] Được vận hành bởi một kíp thủy thủ người Anh dưới quyền chỉ huy của Đại úy Colvin, U-570 lên đường vào ngày 29 tháng 9 để hướng đến Anh. Khi nó đi đến cảng Barrow-in-Furness vào ngày 3 tháng 10, sự kiện được giới truyền thông công bố rộng rãi. Việc chiếm giữ các tàu U-boat khác, như trường hợp chiếc U-110 vốn bị đắm lúc đang được kéo đi, đã được giữ bị mật nhằm giữ kín việc tịch thu được các bảng mật mã và máy Enigma. Tình trạng của U-570 đã được báo cáo đến Bộ chỉ huy Tối cao Đức; ngoài ra nhiều máy bay, tàu chiến và nhân sự có liên quan đến việc chiếm giữ nên rất khó để che dấu được thông tin này.

U-570 được đưa vào một ụ tàu tại xưởng tàu Vickers tại Barrow. Việc sửa chữa rất phúc tạp do mũi tàu bị biến dạng bởi vụ nổ của mìn sâu, làm kẹt bốn quả ngư lôi điện bên trong các ống phóng. Hai sĩ quan thuộc Phòng khảo sát Ngư lôi và Thủy lôi Hải quân Hoàng gia được phái đến giúp đỡ việc tháo dỡ chúng. Xưởng tàu được sơ tán trong khi một công nhân tình nguyện tháo rời quả ngư lôi bằng hàn gió đá dưới sự giám sát của các sĩ quan; sau đó Đại úy Martin Johnson trực tiếp tháo kíp nổ từ đã được kích hoạt. Đại úy Martin Johnson được tặng thưởng Huân chương George sau khi hoàn thành nhiệm vụ vô cùng nguy hiểm này. Thiếu tá Thompson cùng các trung úy John Coleman và Edward Jewiss thuộc đội bay của chiếc Catalina cùng được tặng thưởng Huân chương Chữ thập bay Dũng cảm. Henry L'Estrange, hạm trưởng tàu đánh cá vũ trang HMS Kingston Agate cũng được trao tặng Huân chương Chữ thập Phục vụ Dũng cảm.

Phản ứng từ phía Đức

Ban đầu, Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức chỉ biết được tình hình của U-570 qua bức điện vô tuyến sau cùng, cho biết nó bị không kích và không thể lặn; họ chỉ biết được tình hình thực sự sau khi báo chí Anh đưa tin. Hải quân Đức quan tâm đến độ bảo mật của hệ thống thông tin liên lạc; và trong báo cáo của mình, Phó đô đốc Erhard Maertens đứng đầu ngành Tình báo Hải quân, cho rằng trong tình huống xấu nhất phía Anh có thể lấy được bảng mật mã của U-570 cùng mật khẩu theo trí nhớ của Rahmlow, thông tin mật có thể bị tiết lộ cho đến khi máy Enigma có bảng mã mới vào tháng 11. Tuy nhiên Maertens cho rằng tình huống này khó có thể xảy ra, ông tin rằng thủy thủ đoàn Đức đã tiêu hủy mọi tài liệu mật, và mật khẩu sẽ giúp bảo vệ không bị đối phương giải mã.

Trong thực tế các nhà giải mật mã Anh tại Bletchley Park nhận thấy mật khẩu bổ sung hầu như không có tác dụng. Thủy thủ đoàn của U-570 trong thực tế đã phá hủy máy Enigma và bảng mật mã, nhưng phía Đức không biết rằng Hải quân Anh đã tịch thu được các tài liệu mật khi chiếm chiếc U-110, nên đã giải được mật mã Đức từ tháng 6, 1941. Phía Anh chỉ gặp rắc rối vào tháng 2, 1942, khi họ không thể giải được bảng mã mới của máy Enigma trong suốt mười tháng, trong giai đoạn được mệnh danh "Shark Blackout".

Ngoài Rahmlow, các sĩ quan khác của U-570 được đưa đến một trại tù binh dành cho sĩ quan tại Grizedale Hall, Cumbria. Nơi đây được phía Anh đặt tên lóng U-boat Hotel, vì trong giai đoạn đầu của chiến tranh, đa số tù binh là sĩ quan hải quân từ các tàu U-boat bị đánh chìm. Tại đây một Tòa án Danh dự do các tù binh Đức khác bao gồm Trung tá Hải quân Otto Kretschmer tụ họp, đã xét xử Rahmlow (vắng mặt) cùng các sĩ quan khác của U-570. Rahmlow cùng với hạm phó thứ nhất Bernhard Berndt bị kết tội hèn nhất, trong khi hai sĩ quan khác được tuyên vô tội. Trong đêm 18/19 tháng 10, Berndt đào thoát khỏi trại giam, nhưng bị linh canh bảo vệ bắn chết.

Căn cứ theo một số nguồn, Berndt bỏ trốn khỏi trại tù binh với ý định đi đến nơi neo đậu của U-570 tại Barrow chỉ cách đó nhằm tìm cách phá hủy con tàu. Nguồn khác cho rằng Berndt buộc phải thực hiện việc đào tẩu do áp lực của một nhóm sĩ quan cao cấp Đức, vốn đã đưa ra những đối xử khắc nghiệt với những ai có quan điểm chống Quốc xã hay hợp tác với phía Anh; và Berndt chỉ đơn thuần chạy trốn khỏi lính bảo vệ khi biết rằng mình được đưa trở lại Grizedale Hall, và bị bắn chết sau khi bỏ qua những phát bắn cảnh cáo. Phía Anh sau đó đưa Rahmlow đến một trại giam giữ tù binh Lục quân và Không quân Đức để tránh những sự kiện tương tự.

Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức thừa nhận việc U-570 bị mất một phần là do thủy thủ đoàn thiếu kinh nghiệm và không được huấn luyện đầy đủ. Vào giai đoạn đầu của chiến tranh, chương trình huấn luyện cho thủy thủ đoàn của U-boat đã bị cắt giảm từ ba xuống còn hai tháng. Sự kiện này, cộng với việc tổn thất của U-boat ngày càng tăng cao, bao gồm nhiều chiếc bị mất ngay trong chuyến tuần tra đầu tiên, đã buộc Hải quân Đức phải dành thêm nhiều nguồn lực cho công việc đào tạo huấn luyện. Ngoài ra, họ cũng giải tán các nhóm thủy thủ đoàn kỳ cựu để phân tán họ khắp các chi hạm đội. Nhờ đó thủy thủ đoàn các tàu U-boat mới biên chế bao gồm một nhóm thủy thủ nòng cốt lâu năm nhiều kinh nghiệm.

Nhiều tháng sau đó, Bộ Tổng chỉ huy U-boat Đức vẫn còn quan tâm về số phận của bảng mật mã của U-570. Một loạt các thông điệp được mã hóa ẩn dấu bên trong thư tín cá nhân thông thường được gửi đến Otto Kretschmer yêu cầu báo cáo về vấn đề này. Tuy nhiên họ không biết rằng cơ quan phản gián Đồng Minh đã biết đến kênh thông tin đến các tù binh Đức này.

HMS Graph

thumb|right|Một số thủy thủ Anh của Graph đang ăn bữa tối trong phòng ngư lôi phía trước, trong chuyến đi chạy thử máy vào tháng 2, 1942 Số phận của chiếc tàu ngầm không được xác định ngay lập tức. Winston Churchill dự định chuyển giao nó cho phía Hoa Kỳ để sửa chữa nhằm mục đích tuyên truyền, đồng thời cũng muốn củng cố mối quan hệ với Hoa Kỳ, vốn còn đang ở vị thế trung lập trong Trận Đại Tây Dương đang diễn ra. Phía Hoa Kỳ cũng háo hức có được con tàu, nhưng Hải quân Hoàng gia đã phản đối ý định này, cũng như một ý định khác của Churchill muốn sử dụng con tàu trong Địa Trung Hải với một thủy thủ đoàn người Nam Tư. Thay vào đó, nó nhập biên chế cùng Hải quân Hoàng gia như là chiếc HMS Graph (P715) vào ngày 5 tháng 10, 1941. Tên được đặt bắt đầu với ký tự G để chỉ "German", cho thấy đó là một con tàu chiếm được, đồng thời cũng là một cách chơi chữ đồng âm với "Graf" (tiếng Đức: bá tước).

Chạy thử máy

thumb|right|Một sĩ quan Hải quân Hoàng gia làm việc với hải đồ trong phòng điều khiển của HMS Graph, tháng 2, 1942 Sau khi chiếc tàu ngầm đủ khả năng hoạt động trở lại, nó tham gia nhiều chuyến đi thử nghiệm nhằm tìm hiểu tính năng hoạt động. Thậm chí các ống nhòm Zeiss tìm thấy trên tàu cũng được thử nghiệm cẩn thận. Độ lặn sâu an toàn tối đa của Graph được phát hiện đến , sâu hơn đáng kể so với dự đoán của phía Anh đối với lớp tàu U-boat Type VII. Vào lúc đó, mìn sâu của Hải quân Anh chỉ có thể cài đặt tối đa cho đến , nên tàu ngầm Đức có thể lặn sâu hơn và dễ dàng lẫn tránh. Mìn sâu lập tức được cải tiến để khắc phục nhược điểm này. Đặc tính âm học và từ trường của con tàu cũng được các cơ sở nghiên cứu khác nhau của Hải quân Anh nghiên cứu.

Các chuyên gia kỹ thuật Đồng Minh khảo sát Graph đã đánh giá cao thiết kế và chế tạo của Type VII. Động cơ phụ của Graph được đặt trên các gối cao su nhằm giảm sự lan truyền âm thanh đến lườn tàu, giúp nó tàng hình tốt hơn. Họ cũng đã đánh giá cao kính tiềm vọng do hãng Carl Zeiss AG sản xuất. Các sĩ quan Hoa Kỳ tiến hành khảo sát sơ bộ tại Iceland thậm chí đề nghị nhanh chóng sao chép thiết kế này để sử dụng trên tàu ngầm Hoa Kỳ. Thiết bị âm thanh dưới nước của nó bao gồm một loạt cảm biến dò âm dưới nước tốt hơn hẵn so với thiết bị tương đương của Anh. Phê phán chính yếu đối với con tàu là chỗ ở chật chội dành cho thủy thủ đoàn trên tàu, làm giảm hiệu suất của họ trong các chuyến đi dài ngày.

Vào giữa năm 1942, Graph lại được Hải quân Hoa Kỳ khảo sát cẩn thận, vì họ đang quan tâm đến một thiết kế tàu ngầm nhỏ hơn, có kích thước tương đương với Type VII, với chiều dài khoảng 2/3 và một nữa trọng lượng choán nước so với , vốn đang là cột trụ của hạm đội tàu ngầm Hoa Kỳ. Graph tỏ ra có nhiều ưu điểm so với hai chiếc thử nghiệm hiện có của họ. Tuy nhiên cuối cùng dự án này bị hủy bỏ.

Các bản sao lườn tàu áp lực Graph kích thước thật được chế tạo và sử dụng từ giữa năm 1942 trong những thử nghiệm dưới nước nhằm thiết kế các kiểu bom chống tàu ngầm mới. Trong một dự án bí mật khác của Anh, Graph được dùng là hình mẫu để chế tạo ba mô hình kích thước thật mô phỏng phòng điều khiển, phòng ăn và phòng điện báo của một tàu ngầm Type VII. Chúng được sử dụng để huấn luyện các đội đặc nhiệm trong việc xâm nhập chiếm tàu U-boat, nhanh chóng vô hiệu các phương thức đánh đắm tàu cũng như tim kiếm máy mật mã và tài liệu mật.

Các chuyến tuần tra

thumb|HMS Graph tại [[Holy Loch, Scotland, được sử dụng như một tàu huấn luyện, 20 tháng 4 năm 1943)]] Sau khi hoàn tất các chuyến đi thử nghiệm dưới sự chỉ đạo của Thiếu tá E.D. Norman, Graph được đặt quyền chỉ huy của Đại úy Peter Barnsley Marriott, vốn đã hỗ trợ hoạt động thử nghiệm. Con tàu rời Holy Loch vào ngày 8 tháng 10, 1942 cho chuyến tuần tra đầu tiên trong biên chế Hải quân Hoàng gia, dự định sẽ hoạt động tại khu vực vịnh Biscay.

Phân tích tài liệu thu được của Hải quân Đức sau chiến tranh cho biết chiếc tàu ngầm Đức bị tấn công là U-333, vốn đã bị hư hại nặng sau khi bị tàu corvette của Anh húc phải ngoài khơi bờ biển Tây Phi. Trinh sát viên trên cầu tàu đã phát hiện các quả ngư lôi đang tiến tới, cho phép U-333 cơ động né tránh; các quả ngư lôi sau đó bị kích nổ mà không rõ nguyên nhân. Theo lời của Thiếu tá Peter-Erich Cremer hạm trưởng của U-333, những âm thanh lạch cạch và va đập mà Graph nghe thấy có thể do những hư hại mà U-333 phải chịu đựng trước đó. U-333 quay trở về căn cứ tại bờ biển Đại Tây Dương của Pháp men theo bờ biển Tây Ban Nha, một lộ trình được các tàu U-boat khác thường xuyên sử dụng.

Chuyến tuần tra thứ hai của Graph cũng được tiến hành trong vịnh Biscay từ ngày 19 tháng 11 đến ngày 8 tháng 12. Nó được lệnh truy tìm chiếc tàu chở hàng Ý Cortellazzo, đang băng qua vịnh Biscay trong hành trình từ Bordeaux đi sang Nhật Bản, và được biết đang vận chuyển 2.000 tấn máy móc. Tuy nhiên Graph đã không tìm thấy mục tiêu và cũng không gặp sự kiện gì khác.

Graph khởi hành từ Lerwick vào ngày 24 tháng 12 cho chuyến tuần tra thứ ba, phối hợp cùng ba tàu ngầm Anh khác hoạt động tại vùng biển ngoài khơi Na Uy tại khu vực Altafjord. Lúc 01 giờ 00 ngày 1 tháng 1, 1943, tại tọa độ , nó bắt gặp tàu tuần dương hạng nậng Admiral Hipper, vốn đang quay trở về căn cứ sau khi tấn công bất thành Đoàn tàu JW-51B (được biết đến như là trận chiến biển Barents). Tuy nhiên Hipper ở khoảng cách xa và di chuyển nhanh đến mức Graph không bắt kịp. Đến 04 giờ 23 phút, Graph phát hiện hai tàu khu trục Đức đang di chuyển tốc độ chậm, nên tiếp cận đến khoảng cách và phóng một loạt bốn quả ngư lôi tấn công. Nó nghe thấy các tiếng nổ, nên tin rằng đã đánh trúng mục tiêu và có thể đã đánh chìm một tàu đối phương, tuy nhiên loạt ngư lôi đã trượt mục tiêu. Graph được cho xuất biên chế vào ngày 21 tháng 6, 1943, và tiếp tục được sử dụng như mục tiêu thực hành mìn sâu để xác định hiệu quả phá hủy cấu trúc tàu. Sau khi sống sót qua các thử nghiệm này, Graph được kéo từ Xưởng tàu Chatham đến sông Clyde để tháo dỡ. Tuy nhiên trên đường đi vào ngày 20 tháng 3, 1944, một cơn giông trong hoàn cảnh thời tiết xấu đã khiến dây cáp kéo bị đứt và chiếc tàu ngầm bị mắc cạn ở vị trí gần Coul Point, bên bờ phía Tây của Islay, Scotland, tại tọa độ , và bị bỏ không tại đây.

Xác tàu được tháo dỡ một phần và trục vớt vào năm 1961. Đến năm 1966, thợ lặn khảo cổ Keith Jessop tháo dỡ một số hiện vật mà không được phép của chủ sở hữu xác tàu, nên chịu án phạt của tòa án. Vào năm 1970, một phần còn lại của Graph vẫn nhìn thấy được khi thủy triều thấp trên bãi đá gần bãi biển Saligo.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**USS _Thatcher_ (DD–162)** là một tàu khu trục thuộc lớp _Wickes_ của Hải quân Hoa Kỳ trong giai đoạn Chiến tranh Thế giới thứ nhất, sau được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Canada và
**USS _Laub_ (DD-263)** là một tàu khu trục lớp _Clemson_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, nó được chuyển
nhỏ|phải|Vị trí vùng Đồng bằng sông Cửu Long trên bản đồ Việt Nam **Đồng bằng sông Cửu Long**, còn được gọi là **Tây Nam Bộ** hay** miền Tây**, là vùng cực nam của Việt Nam,
Tề Dượng vương **Vũ Văn Hiến** (chữ Hán: 宇文宪, 544 - 578), tên tự là **Bì Hà Đột**, người trấn Vũ Xuyên, Đại Quận , dân tộc Tiên Ti, là tướng lĩnh, hoàng thân nhà
**Mikoyan-Gurevich MiG-23** (tiếng Nga: Микоян и Гуревич МиГ-23; tên ký hiệu của NATO: "**Flogger**") là một loại máy bay tiêm kích cánh cụp cánh xòe, được thiết kế bởi phòng thiết kế Mikoyan-Gurevich OKB của
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên