✨Tàu ngầm

Tàu ngầm

nhỏ|260x260px|Một chiếc tàu ngầm Typhoon 3 Tàu ngầm hay tầu ngầm, còn gọi là tiềm thủy đĩnh, là một loại tàu đặc biệt hoạt động dưới nước. Nhiều quốc gia có lực lượng hải quân sử dụng tàu ngầm cho mục đích quân sự. Tàu ngầm cũng được sử dụng cho vận chuyển hàng hải và nghiên cứu khoa học ở đại dương cũng như ở vùng nước ngọt, giúp đạt tới độ sâu vượt quá khả năng lặn của con người.

Lịch sử

Người ta đã coi Cornelis Drebbel, nhà vật lý, người phát minh ra nhiệt kế, sống ở cung vua Anh Jacques I và là thái phó của các hoàng tử và công chúa của quốc vương, là cha đẻ của tàu ngầm đầu tiên. Thực ra ông chỉ áp dụng các ý tưởng của nhà toán học Anh William Bourne, đưa ra từ năm 1578. Bourne cũng đã có ý tưởng về một cột buồm rỗng để thông gió. Đó là nguyên lý của ống thông hơi mãi sau này được trang bị cho các tàu ngầm của Đức kiểu XXI.

Năm 1624, Drebbel đã cho chế tạo một tàu ngầm có dạng quả trứng, bằng gỗ, được đẩy đi bởi mười hai người chèo thêm vào thủy thủ đoàn, mà ông đã thử trên sông Thames trước sự ngạc nhiên của mọi người.

Dường như Drebbel đã có ý tưởng tái sinh không khí trên tàu bằng con đường hóa học nhờ một dung dịch kiềm, vốn đã kích thích rất mạnh trí tò mò của nhà vật lý Robert Boyle (1627–1691).

Nguyên lý hoạt động

nhỏ|300x300px|Nguyên lý lặn và nổi của tàu ngầm, ở giữa 2 lớp vỏ tàu là khoang chứa nước Nguyên lý hoạt động của tàu ngầm dựa vào hai định luật cơ bản của Vật lý:

Định luật Ac-si-mét: Với bất cứ một vật nào chìm trong nước, đều chịu một lực đẩy, thẳng đứng, hướng lên trên và có độ lớn đúng bằng phần chất lỏng mà vật đang chiếm chỗ.

Định luật Pascal: Áp suất mà một bề mặt phải chịu tỉ lệ thuận cùng lực tác dụng lên bề mặt, tỉ lệ nghịch với diện tích bề mặt đó.

Đối với một tàu ngầm thông thường, có hai, lớp vỏ dày 70mm, lớp vỏ trong dày 80mm, dày hơn nhiều và cũng là lớp vỏ của khoang nhân viên, giữa hai lớp vỏ là khoang trống có chứa các giàn ép nước. Khi tàu nổi thì khoang giữa hai lớp vỏ này trống, khi muốn tàu lặn thì có một van phía trên sẽ mở, nước tràn vào khe giữa hai vỏ làm khối lượng tàu tăng lên, chìm xuống. Các giàn ép phía trong khoang giữa hai vỏ này có nhiệm vụ dồn không khí vào chiếm chỗ nước để tàu nổi lên.

Duy trì chất lượng không khí

Có ba điều phải xảy ra để giữ cho không khí trong một chiếc tàu ngầm thở:Hình vẽ [[tàu ngầm quân sự loại Ohio đang phóng tên lửa Trident ICBM.]]

Oxy phải được bổ sung lượng như đã được tiêu thụ. Nếu tỷ lệ oxy trong không khí giảm quá thấp, thủy thủ sẽ bị ngộp thở. Carbon dioxide phải được loại bỏ từ không khí. Khi nồng độ tăng carbon dioxide, nó trở thành một chất độc. Độ ẩm từ hơi thở của chúng ta phải được loại bỏ. Oxy được cung cấp hoặc từ bồn áp lực, một máy tạo oxy (mà có thể tao oxy từ điện phân nước) hoặc một số loại "ống đựng oxy" mà giải phóng khí oxi bằng một phản ứng hóa học. Oxygen hoặc là được tạo ra liên tục qua một hệ thống máy tính có thể bù lại lượng oxy trong tàu ngầm, hoặc nó được cung cấp định kỳ theo ngày.

Carbon dioxide có thể được loại bỏ từ không khí bằng cách sử dụng soda (sodium hydroxide và calcium hydroxide). Các carbon dioxide sẽ được giữ lại trong vôi soda bởi một phản ứng hóa học và loại bỏ. Phản ứng tương tự khác có thể thực hiện cùng một mục đích.

Độ ẩm có thể được loại bỏ bằng một máy hút ẩm hoặc bằng hóa chất. Điều này ngăn không cho ngưng tụ hơi nước trên các bức tường và các thiết bị bên trong con tàu. Ngoài ra, các loại khí khác như carbon monoxide hoặc hydrogen, được tạo ra bởi thiết bị và thuốc lá, có thể được loại bỏ bằng cách nhiệt. Cuối cùng, bộ lọc được sử dụng để loại bỏ các hạt bụi bẩn và bụi từ không khí.

Duy trì cung cấp nước ngọt

Hầu hết các tàu ngầm có một bộ máy chưng cất có thể biến nước biển thành nước ngọt. Nhà máy chưng cất làm nóng nước biển để tạo hơi nước, loại bỏ cát muối, và sau đó làm mát hơi nước vào bể thu nước sạch. Nhà máy chưng cất trên một số tàu ngầm có thể sản xuất 10.000 đến 40.000 gallon (38.000 - 150.000 lít) nước ngọt mỗi ngày. Nước này được sử dụng chủ yếu để làm mát thiết bị điện tử (như máy tính và thiết bị dẫn đường) và hỗ trợ cho các thuyền viên (ví dụ, uống, nấu ăn và vệ sinh cá nhân).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|upright=1.35| – chiếc dẫn đầu của lớp tàu ngầm SSBN đầu tiên của [[Hải quân Hoa Kỳ. _George Washington_ cũng là tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân đầu tiên có khả năng răn
**Lớp Kilo** là tên định danh của NATO chỉ một loại tàu ngầm quân sự chạy bằng diesel-điện cỡ lớn được chế tạo tại Nga. Tên gọi chính thức của Nga đặt cho lớp tàu
Tàu ngầm **_lớp Virginia_**, hay **lớp SSN-774**, là một loại tàu ngầm tấn công nhanh, chạy bằng năng lượng hạt nhân, mang tên lửa hành trình đang được trang bị cho Hải quân Mỹ. Tàu
Tầu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân lớp **Akula**, tên định danh của Liên Xô là **Project 971 _Shchuka-B**_ (, tên định danh của NATO là _**Akula**_) là tàu ngầm tấn công
**Tàu ngầm lớp** **Yankee**, Liên Xô gọi là **Project 667A _Navaga**_ và **Project 667AU _Nalim_**, là các tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Hải quân Liên Xô. Tổng cộng đã có
**Tàu ngầm lớp** **_Ko-hyoteki_** (甲標的, Kō-hyōteki), hay tàu ngầm **Kōryū** (蛟竜) là tàu ngầm loại nhỏ được Nhật Bản sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ hai. Chúng có số trên thân tàu nhưng
**Tàu ngầm lớp I-201** là một loại tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản trong chiến tranh thế giới thứ hai. Loại tàu ngầm được thiết kế nâng cao để có thể di
**Tàu ngầm lớp Sōryū** (tiếng Nhật: そうりゅう) hay **16SS** là lớp tàu ngầm điện-diesel do Mitsubishi Heavy Industries và Kawasaki Heavy Industries hợp tác chế tạo cho Lực lượng Phòng vệ trên biển Nhật Bản
**_I-47_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C2 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944,
**_I-53_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C3 được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu ngầm
**_I-7_** là một tàu ngầm tuần dương phân lớp bao gồm hai chiếc có khả năng mang máy bay của Hải quân Đế quốc Nhật Bản. Nó cùng với tàu chị em _I-8_ là những
**_I-6_** là một tàu ngầm tuần dương, là chiếc duy nhất thuộc phân lớp của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, và có khả năng mang máy bay. Nhập biên chế năm 1935, _I-6_ đã
**_I-121_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 48_** và mang tên **_I-21_** từ năm 1924 đến năm 1938 là một tàu ngầm của Hải quân Đế quốc Nhật Bản, là chiếc dẫn đầu của lớp tàu
**_I-29_**, tên mã _Matsu_, là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm
**_I-65_**, sau đổi tên thành **_I-165_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai V nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1932. Nó đã phục vụ trong
**_I-69_**, sau đổi tên thành **_I-169_**, là một tàu ngầm tuần dương Chiếc tàu ngầm trang bị hai động cơ diesel Kampon Mk.1A Model 8 hai thì công suất , mỗi chiếc vận hành một
**Lớp tàu ngầm _Tambor**_ bao gồm mười hai tàu ngầm diesel-điện được Hải quân Hoa Kỳ đưa vào hoạt động ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là những tàu ngầm hạm đội
Tàu ngầm lớp **Yasen**, định danh của Nga là **Project 885 Yasen** và **Project 885M Yasen-M** (, Tên ký hiệu của NATO: **Severodvinsk**), hay cũng thường được nhắc đến là tàu ngầm lớp **_Graney_**, là
nhỏ|300x300px|[[Tàu ngầm Đề án 651|Tàu ngầm Đề án 651 (Juliet) mang tên lửa hành trình]] nhỏ|300x300px|Tàu ngầm bắn thử nghiệm tên lửa Regulus **Cruise missile submarine** hay **Tàu ngầm mang tên lửa hành trình** là
**Tàu ngầm lớp Oscar**, định danh của Liên Xô **Project 949 _Granit**_ và **Project 949A _Antey_** (tên ký hiệu của NATO **Oscar I** và **Oscar II**), là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân
Lớp tàu ngầm **George Washington** là một lớp tàu ngầm chạy bằng năng lượng hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Mỹ. _George Washington_, cùng với các lớp tàu ngầm sau này như lớp
thumb| (phía sau), một trong hai tàu tiếp liệu tàu ngầm được [[Hải quân Hoa Kỳ duy trì. Chiếc tàu ngầm tấn công đang ở phía trước.]] **Tàu tiếp liệu tàu ngầm**, (tên gọi cũ
**_Lớp tàu ngầm Seawolf_** là một lớp tàu ngầm tấn công nhanh (SSN) sử dụng năng lượng hạt nhân, là lực lượng nòng cốt của đội tàu ngầm của Hải quân Liên bang Mỹ (USN).
**Tàu ngầm Klasse XXIII** "Elektroboot" là loại tàu ngầm ven bờ (coastal submarine) được thiết kế để hoạt động tại các vùng biển như: Biển Bắc, Biển Đen và Biển Địa Trung Hải, nơi mà
**_U-570_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó chỉ thực
**_I-3_** là một tàu ngầm tuần dương lớp bao gồm bốn chiếc có trọng lượng choán nước lên đến 2.135 tấn, được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn sau Chiến
Tàu ngầm lớp **_Ohio_** là một lớp tàu ngầm năng lượng hạt nhân mang tên lửa đạn đạo của Hải quân Mỹ, bao gồm 14 tàu mang tên lửa liên lục địa (SSBN) và bốn
**_I-15_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
**_U-38_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1938, nó đã thực
**_I-122_**, nguyên là **_Tàu ngầm số 49_** và mang tên **_I-22_** từ năm 1926 đến năm 1938, là một tàu ngầm rải mìn lớp _I-121_ được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong
**_U-43_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Type IXA được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1939, nó đã thực
**_I-59_**, sau đổi tên thành **_I-159_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-64_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai IV nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1930. Nó đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ
**_I-35_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-36_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1942, nó đã
**_I-177_** (nguyên là **_tàu ngầm số 155_**, rồi **_I-77_** cho đến ngày 20 tháng 5, 1942) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc
**_I-56_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1944, nó hoạt động
**_I-18_** là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp Type C được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã
nhỏ|Tàu ngầm HMS Astute, loại tàu ngầm hạt nhân tấn công tiên tiến. **Tàu ngầm hạt nhân** (tiếng Anh: Nuclear submarine) là một loại tàu ngầm vận hành nhờ năng lượng sinh ra từ phản
**Tàu ngầm lớp Echo** là lớp tàu ngầm hạt nhân mang tên lửa hành trình của Hải quân Liên Xô những năm 1960. Định danh của Liên Xô cho tàu ngầm đầu tiên thuộc loại
**Tàu ngầm lớp Oyashio** (tiếng Nhật: **_おやしお_**) là một lớp tàu ngầm tấn công chạy bằng động cơ điện-diesel do Nhật Bản tự phát triển và được đưa vào biên chế Lực lượng phòng vệ
**Tàu ngầm lớp _Tench**_ là một lớp tàu ngầm được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giai đoạn cuối Chiến tranh Thế giới thứ hai. Chúng là sự cải tiến dựa trên các lớp
phải|Chiếc tàu ngầm do [[Robert Fulton thiết kế năm 1806.]] **Lịch sử tàu ngầm** bao gồm các niên đại và sự thật lịch sử liên quan đến tàu ngầm, tàu thuyền có người lái tự
**Tàu ngầm Đề án 633** (tiếng Nga: **Проекта 633** - Proyekta 633) là một trong các lớp tàu ngầm điện-diesel được Liên Xô đóng trong những năm 1950. Tàu ngầm Đề án 633 nguyên mẫu
**_U-558_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực
**_U-552_** là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type VIIC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1940, nó đã thực
**_I-185_** (nguyên mang tên **_I-85_**) là một tàu ngầm tuần dương thuộc phân lớp Kaidai VII, nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1943. Nó đã hoạt động trong Chiến
**_I-5_** là chiếc tàu ngầm mang máy bay đầu tiên của Hải quân Đế quốc Nhật Bản và đã hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Là chiếc duy nhất trong phân lớp
**_I-10_** là một tàu ngầm tuần dương lớp được Hải quân Đế quốc Nhật Bản chế tạo trong giai đoạn ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã
**_I-56_**, sau đổi tên thành **_I-156_**, là một tàu ngầm tuần dương thuộc lớp phụ IIIB nhập biên chế cùng Hải quân Đế quốc Nhật Bản vào năm 1929. Trong Chiến tranh Thế giới thứ