✨U-505 (tàu ngầm Đức)
U-505 là một tàu ngầm tấn công thuộc phân lớp Type IXC được Hải quân Đức Quốc Xã chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nhập biên chế năm 1941, nó đã thực hiện được 12 chuyến tuần tra, đánh chìm được tám tàu buôn với tổng tải trọng . Con tàu bị Hải quân Hoa Kỳ chiếm được vào ngày 4 tháng 6, 1944, sống sót qua cuộc xung đột và hiện là một tàu bảo tàng tại Chicago.
Trong suốt quãng đời hoạt động kém may mắn, U-505 từng là tàu ngầm U-boat bị hư hại nặng nhất quay trở về được đến cảng, có sáu chuyến tuần tra hỏng, và là tàu ngầm duy nhất trong Thế Chiến II có hạm trưởng tự vẫn trong hoàn cảnh tác chiến. Nó bị Đội đặc nhiệm 22.3 Hải quân Hoa Kỳ chiếm được ngoài khơi Tây Sahara, là một trong số sáu tàu ngầm U-boat bị lực lượng Đồng Minh chiếm trong chiến tranh, và toàn bộ thủy thủ đoàn ngoại trừ một người đã bị bắt làm tù binh chiến tranh. U-505 được kéo đến Bermuda, đổi tên thành USS _Nemo_, và việc chiếm giữ con tàu đã được giữ bí mật tuyệt đối cho đến hết chiến tranh.
U-505 được trao tặng cho Bảo tàng Khoa học và Công nghệ tại Chicago, Illinois vào năm 1954. Hiện nó là một trong số bốn tàu ngầm U-boat của Đức được giữ lại và bảo tồn như một tàu bảo tàng, và là một trong hai chiếc lớp Type IXC còn lại, cùng với U-534.
Thiết kế và chế tạo
Thiết kế
Thiết kế của tàu ngầm Type IXC có kích thước hơi nhỉnh hơn so với phân lớp Type IXB dẫn trước. Chúng có trọng lượng choán nước khi nổi và khi lặn. Con tàu có chiều dài chung , lớp vỏ trong chịu áp lực dài , mạn tàu rộng , chiều cao và mớn nước .
Chúng trang bị hai động cơ diesel MAN M 9 V 40/46 siêu tăng áp 9-xy lanh 4 thì, tổng công suất , dẫn động hai trục chân vịt đường kính , cho phép đạt tốc độ tối đa , và tầm hoạt động tối đa khi đi tốc độ đường trường . Khi đi ngầm dưới nước, chúng sử dụng hai động cơ/máy phát điện Siemens-Schuckert 2 GU 345/34 tổng công suất . Tốc độ tối đa khi lặn là , và tầm hoạt động ở tốc độ . Con tàu có khả năng lặn sâu đến .
Vũ khí trang bị có sáu ống phóng ngư lôi , bao gồm bốn ống trước mũi và hai ống phía đuôi, và mang theo tổng cộng 22 quả ngư lôi . Tàu ngầm Type IX trang bị một hải pháo SK C/32 với 110 quả đạn, một pháo phòng không SK C/30 và hai pháo phòng không C/30. Thủy thủ đoàn bao gồm 4 sĩ quan và 44 thủy thủ.
Chế tạo
U-505 được đặt hàng vào ngày 25 tháng 9, 1939,
1944
Chuyến tuần tra thứ mười hai
U-505 xuất phát từ cảng Brest vào ngày 16 tháng 3 cho chuyến tuần tra thứ mười hai, cũng là chuyến cuối cùng, và đã hướng xuống phía Nam để hoạt động dọc theo bờ biển Tây Phi. Nhờ giải mã các bức điện của Đức, phía Đồng Minh biết được một số tàu ngầm U-boat đang hoạt động tại khu vực quần đảo Cabo Verde, nhưng không biết chính xác vị trí của chúng, vì vậy Đội đặc nhiệm 22.3 được phái đến khu vực này.
Đơn vị tìm-diệt tàu ngầm, này dưới quyền chỉ huy của Đại tá Hải quân Daniel V. Gallery, bao gồm tàu sân bay hộ tống và một đội tàu hộ tống khu trục bao gồm , , , và dưới quyền Trung tá Hải quân Frederick S. Hall. Đội đặc nhiệm 22.3 xuất phát từ Norfolk, Virginia vào ngày 15 tháng 5 và đã truy lùng tàu U-boat tại khu vực vào cuối tháng 5, sử dụng thiết bị định vị vô tuyến và máy bay tuần tra trên không.
Bị tấn công và chiếm giữ
Lúc 11 giờ 09 phút ngày 4 tháng 6, ở vị trí khoảng ngoài khơi bờ biển Río de Oro, tại tọa độ , Chatelain phát hiện tín hiệu sonar của U-505 trước mũi tàu bên mạn phải ở khoảng cách chỉ có .
Pillsbury tìm cách nối dây cáp để kéo U-505, nhưng nó liên tục va chạm với chiếc tàu ngầm, và sau đó tách ra xa với ba khoang bị ngập nước. Sau đó một đội đổ bộ thứ hai từ Guadalcanal lại đổ bộ lên chiếc tàu ngầm, do Trung tá Earl Trosino, sĩ quan trưởng phòng máy dẫn đầu. Họ nối được dây cáp kéo từ Guadalcanal, Thủy thủ đoàn của U-505 bị cách ly với mọi tù binh khác, và Hội Chữ thập đỏ không được phép tiếp xúc. Hải quân Đức cuối cùng công bố U-505 bị mất với toàn bộ thủy thủ đoàn và thông báo cho gia đình; họ chỉ quay trở về Đức vào năm 1947.
Theo nguồn của sử gia Clay Blair, Đô đốc Ernest King, Chủ nhiệm tác chiến Hải quân Hoa Kỳ đã tỏ thái độ giận dữ đối với Đại tá Gallery, và từng cân nhắc đưa Gallery ra tòa án binh, vì có thể khiến hệ thống Ultra chuyên giải mật mã Enigma của Đức mất hiệu lực. Nếu Hải quân Đức biết được một tàu U-boat bị chiếm giữ, Bộ tổng chỉ huy U-boat có thể thay đổi bảng mã để siết chặt an ninh cho máy Enigma, đưa đến việc tình báo Đồng Minh không giải mã được đối phương ngay trước khi diễn ra cuộc đổ bộ Normandy. Do phía Đồng Minh đã xâm nhập được hệ thống Enigma sau khi chiếm được các chiếc U-110 năm 1941 và U-559 năm 1942, chỉ thị chung là sẽ đánh chìm mọi tàu U-boat ngay lập tức thay vì tìm cách bắt giữ chúng.
Trung úy Albert David được tặng thưởng Huân chương Danh dự do thành tích dẫn đầu đội đổ bộ từ USS Pillsbury chiếm giữ U-505, đây là lần duy nhất mà phần thưởng quân sự cao quý nhất này được trao tặng cho một thủy thủ Hạm đội Đại Tây Dương trong Thế Chiến II. Hai thủy thủ khác trong đội của David được tặng thưởng Huân chương Chữ thập Hải quân; Trung tá Trosino được tặng thưởng Legion of Merit (Huân chương Quân công), còn Đại tá Gallery được tặng thưởng Huân chương Phục vụ Xuất sắc Hải quân. Tập thể Đội đặc nhiệm 22.3 được tặng danh hiệu Đơn vị Tuyên dương Tổng thống.
"Bầy sói" tham gia
U-505 từng tham gia một bầy sói:
- Hela (28 tháng 12, 1943 – 1 tháng 1, 1944)
Tóm tắt chiến công
U-505 đã đánh chìm được tám tàu buôn với tổng tải trọng :
Tàu bảo tàng
thumb|right|Biển chứng nhận con tàu là một Di tích Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ Hải quân Hoa Kỳ không có kế hoạch sử dụng U-505 sau chiến tranh, sau khi các chuyên gia đã khảo sát con tàu kỹ càng tại Bermuda. Nó bị bỏ không tại Xưởng hải quân Portsmouth, và hải quân dự định sử dụng nó như mục tiêu giả lập trong thực hành tác xạ hải pháo và ngư lôi.
Đến năm 2004, phần vỏ ngoài của chiếc U-boat bị hư hại đáng kể do thời tiết ngoài trời, nên viện bảo tàng đã chuyển nó sang một tầng ngầm được điều chỉnh khí hậu vào tháng 4, 2004. Con tàu được phục chế và mở trở lại cho tham quan vào ngày 5 tháng 6, 2005. Đến năm 2019, viện bảo tàng tiến hành phục chế U-505 cho gần sát với con tàu nguyên bản. Ngoài ra còn khánh thành thêm một gian trưng bày đặc biệt những hiện vật của chiếc tàu ngầm tại sảnh chính của viện bảo tàng.