✨Tề Cảnh công

Tề Cảnh công

Tề Cảnh công (chữ Hán: 齊景公, bính âm: Qí Jǐng Gōng; cai trị: 547 TCN – 490 TCN), họ Khương (姜) hay (呂), tên thật là Chử Cữu (杵臼), là vị quốc quân thứ 26 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.

Tề Cảnh công được lập lên ngôi sau nhiều cuộc biến loạn trong công thất Tề quốc. Sau những năm đầu mà thực quyền nằm cả trong tay hai quyền thần Khánh Phong và Thôi Trữ, ông nhận được sự tôn phò của các họ đại phu mà nắm lại thực quyền.

Thân thế và cuộc sống ban đầu

Ông là con trai thứ của Tề Linh công – quốc quân thứ 24 nước Tề và là em Tề Trang công – quốc quân thứ 25 nước Tề. Mẹ ông là thị thiếp của Tề Linh công, con gái đại phu quý tộc Thúc Tôn Tuyên Bá, một trong Tam Hoàn (ba gia tộc kiểm soát triều chính tại láng giềng của Tề quốc là Nước Lỗ nửa cuối thời Xuân Thu).

Trưởng huynh của Chử Cữu là Thế tử Quang bị vua cha Tề Linh công ghét bỏ, đuổi ra trấn ngoài, để dọn đường cho công tử khác là Nha kế ngôi. Năm 554, Linh công bệnh nặng, Quang được Thôi Trữ đưa về cung, giết chết Thế tử Nha và khiến Linh công tức giận mà chết. Quang sau đó lên nối ngôi, tức là Tề Trang công. Tề Trang công lên ngôi lại gian díu với vợ của Thôi Trữ là nàng Đường Khương. Vì thế năm 548 TCN, Thôi Trữ giết chết Tề Trang công tại nhà riêng, rồi thông cáo với các đại phu, lập công tử Chử Cữu là cháu ngoại nước Lỗ, lên ngôi vua, để hòa hiếu với Lỗ. Chử Cữu sau đó tức vị, tức là Tề Cảnh công.

Nội trị

Thất bại của Thôi, Khánh

Sau khi Thôi Trữ giết Trang công thì sai người mang lễ vật tới xin hòa với vua Tấn, và cũng để ém nhẹm vụ giết vua của mình, sau đó có hội chư hầu ở Trọng Khưu thuộc đất nước Tề.

Tề Cảnh công phong Khánh Phong, Thôi Trữ làm Tả, Hữu Tướng quốc điều hành chính sự. Không lâu sau Khánh Phong mưu trừ Thôi Trữ để một mình nắm quyền. Năm 546 TCN, nhân nhà họ Thôi có việc tranh chấp thừa kế giữa con lớn và con nhỏ, Khánh Phong giả cách giúp Thôi Trữ dẹp loạn 2 người con lớn nhưng nhân đó giết cả nhà họ Thôi. Thôi Trữ nhận ra mình bị lừa gạt bèn tự sát. Quyền chính nước Tề về tay Khánh Phong, nhưng Khánh Phong lại ham mê săn bắn, thường đem vợ con lại nhà Lư Bồ Miết uống rượu, nên việc quốc chính giao hết cho con lớn là Khánh Xá.

Năm 545 TCN, thấy Khánh Phong cùng Khánh Xá chuyên quyền, bốn họ đại phu họ Bão, Cao, Loan và Điền mưu trừ họ Khánh. Cùng lúc đó theo lời của Lư Bồ Miết, Khánh Phong triệu em ông này là Lư Bồ Quý về triều, đem con gái gả cho, nhưng Lư Bồ Quý vẫn nuôi chí báo thù cho chủ cũ là Trang công. Mùa đông năm đó, thừa dịp Khánh Phong đi săn, chỉ có Khánh Xá ở nhà, Lư Bồ Quý và Vương Hà phát động binh biến, được 4 nhà mang quân trợ giúp, giết chết Khánh Xá trong ngày tế lễ. Toàn bộ Khánh thị bị diệt, chỉ riêng Khánh Phong đang ở ngoài mới thoát, một mình bỏ chạy sang lưu vong ở nước Lỗ. Tề bức ép Lỗ phải giao Khánh Phong ra, Phong biết được lại chạy sang Ngô quốc, được Ngô Dư Sái thu nạp, sau bị quân Sở giết chết. Từ đó chính sự nước Tề ổn định trở lại.

Bởi vì loạn họ Thôi, các công tử anh em với Tề hầu đều chạy trốn ra nước ngoài. Đến đây nhà vua triệu họ trở về, ban cho đồ dùng và trả lại ấp phong. Lại đày Lư Bồ Miết ra Bắc Cảnh, cải táng cho huynh trưởng là Tề Trang công. Cuối năm 545 TCN, vua Tề sai đào thây của Thôi Trữ và vợ là nàng Đường Khương lên, truyền phơi xác giữa chợ. Án Anh can rằng gia hình lên thân xác người phụ nữ là việc làm trái đức, vì vậy chỉ cho phơi xác của Thôi Trữ mà thôi.

Sự trỗi dậy của họ Điền

Sau khi Thôi, Khánh bị diệt thì đến lượt hai nhà Loan và Cao (hậu duệ dòng Huệ công) nắm quyền. Trưởng tộc hai nhà này là Loan Thi và Cao Cương vừa nghiên rượu vừa mê gái, lại ghét hai nhà Điền và Bão. Hai nhà Điền và Bão nghi Cao, Loan có ý diệt trừ mình, nên đã ra tay trước. Năm 532 TCN, Điền Vô Vũ cùng Bão Quốc (Bão Văn tử) đánh Loan Thi và Cao Cương. Hai nhà kia không chống nổi, bỏ chạy đến cung thất, nhưng Cảnh công sai đóng chặt Hổ Môn không cho họ vào. Hai nhà Cao, Loan đóng ở phía hữu, Điền và Bão đóng ở phía tả của Hổ Môn. Cảnh công theo lời Án Anh, cho rằng lỗi của Loan, Cao nặng hơn Điền, Bão nên cần diệt trừ trước. Loan Thi và Cao Cương chạy trốn sang Nước Lỗ. Điền và Bão chia nhau tài sản của Cao và Loan. Án Anh phải đem lý lẽ ra giảng giải để buộc hai họ trả số tài sản đó về công thất. Điền Vô Vũ xin cho gọi các Công tử bị họ Cao đuổi đi khi trước trở về Tề, các công tử đều cảm kích. Lại nịnh nọt mẹ vua là bà Mục Mạnh Cơ để bà nói giúp, xin cho họ Điền tăng thực ấp Cao Đường, từ đó họ Điền lớn mạnh, về sau đã thay họ Khương làm chủ nước Tề.

Có lần Cảnh công ngồi ở trong cung bàn với Án Anh về việc Điền Vô Vũ (Điền Hoàn tử) thường chu cấp của công thất, cứu tế lê dân, Án Anh cho rằng họ Điền cho của còn nhà vua thì thu thuế, lòng dân ắt hướng theo họ Điền, ngày sau khi công thất suy yếu tất sẽ bị họ Điền tiếm đoạt. Cảnh công từ đó có ý đề phòng họ Điền, song Điền Vô Vũ hành động cẩn trọng, không để lộ tội lỗi gì, nên chưa thể trừng phạt được.

Hiền tướng Án Anh

thumb|right|Án Anh ([[578 TCN - 501 TCN)]]

Án Anh, người gốc Đông Hải, dáng người thấp nhỏ nhưng có trí tuệ thông minh và là một vị quan tài ba. Sau khi Thôi Trữ giết Tề Trang công đã từng có ý muốn giết luôn Án Anh vì ông ta không phục mình, nhưng cuối cùng bị can ngăn nên mới thôi. Sau khi Thôi, Khánh bị diệt; Tề Cảnh công lấy Án Anh làm tướng quốc, nắm hết quyền chính nước Tề, giống như Tề Hoàn công dùng Quản Trọng ngày trước. Trong lần xuất sứ Sở quốc, ông bị người Sở làm nhục đủ điều, nhưng vì tài ứng đối mà không bị mất danh dự, khiến Sở vương phải chịu phục. Sau lần đó, Tề Cảnh công tôn Án Anh làm thượng tướng, ban cho một cái áo câu giá nghìn lạng vàng, lại muốn phong thêm thái ấp và dựng dinh thự mới cho, nhưng Án Anh đều từ chối. Cảnh công có lần thăm nhà Án Anh trông thấy Án phu nhân đã già mà xấu, nên nói đùa là muốn đem con gái trẻ đẹp gả cho. Án Anh từ chối, bảo rằng không nỡ phụ bạc hiền thê. Do vậy Cảnh công lại càng mến đức và tin tưởng Án Anh.

Năm 539 TCN, Cảnh công định sửa sang chỗ ở của Án tướng quốc, Án Anh tìm cớ xin từ chối. Đến khi Án Anh đi sứ Tấn quốc, Cảnh công bèn cho phá những ngôi nhà xung quanh để mở rộng nhà của Án Anh. Án Anh trở về, tạ ơn Cảnh công, sau đó phá dỡ ngôi nhà mới, lấy gạch dựng lại những ngôi nhà bị phá khi trước và mời những người hàng xóm cũ trở về. Ban đầu Cảnh công cảm thấy không hài lòng vì việc đó, nhưng Án Tử nhờ Điền Vô Vũ nói giúp, nên ông đành phải thuận theo như vậy.

Tề Cảnh công có ba viên dũng tướng là Điền Khai Cương, Công Tôn Tiệp và Cổ Giả Tử đều từng có nhiều công trạng, rất được tin dùng. Ba người ngày càng kiêu ngạo và hống hách, không coi vua ra gì, Cảnh công dần sinh ý ghét, Án Anh tìm cách trừ khử họ đi. Nhân dịp Lỗ Chiêu công sang triều yết, Án Anh tâu với vua lấy 6 quả đào ra bàn tiệc, nói dối là Vạn thọ kim đào trồng 90 năm mới kết trái, rồi làm lễ chia đào, hai vua cùng hai tướng lễ (Án Anh và Thúc Tôn Nhược của Lỗ) mỗi người một quả, còn hai quả thì bảo các quan tự kể công lên để xét mà chia đào. Công Tôn Tiệp và Cổ Giả Tử tranh được hai quả đào ấy, mà Điền Khai Cương có công lớn nhất thì lại hết đào. Khai Cương bị nhục liền rút gươm tự sát. Công Tôn Tiệp và Cổ Giả Tử nghĩ tình anh em và tự thẹn vì công nhỏ mà được ăn đào, nên cũng đâm cổ chết theo. Vụ này được nhắc đến với giai thoại "Giết ba dũng sĩ bằng hai quả đào" (nhị đào sát tam sĩ, 二桃殺三士).

Năm 522 TCN Tề Cảnh công mắc bệnh sốt cách nhiệt nằm ở trong cung, qua hết một năm vẫn chưa hết. Bọn Lương Khâu Cứ và Duệ Khoản tâu với ông rằng căn bệnh đó là do quan Chúc và quan Sử (các chức lo việc tế lễ) không tôn kính khi khấn vái các vị thần linh, và đòi giết họ đi. Tề hầu đem việc hỏi ý của Phu tử (Án Anh). Phu tử đáp rằng khi nhà vua có đức thì tự nhiên quan Chúc sẽ đem những đức hạnh đó nói cho thần linh biết, và nhà vua sẽ được phù hộ. Nhưng hễ mà nhà vua làm việc xấu, thì quan Chúc vẫn phải trình bày sự thực, và nhà vua sẽ bị trời trừng phạt, nếu quan Chúc và Sử mà trình bày giả dối thì cả nước sẽ bị giáng tai vạ, và khuyên vua bớt việc xây dựng và lễ nhạc, giảm bớt thuế khóa... để tu sửa đức chính. Tề hầu nghe theo.

Cuối năm 522 TCN, Tề hầu đã khỏi bệnh, và đi săn ở đất Bái, sai viên quan là Ngu Nhân giữ việc coi vườn thú, cầm cái cung. Ngu Nhân không tới, Tề hầu sai người tới bắt tội muốn giết. Ngu Nhân đáp rằng theo lễ khi triệu tập Ngu nhân thì người tới truyền phải mang theo mũ chiến, mà nay không thấy nên không đến; Tề hầu mới tha cho. Khi đi săn về, Tề hầu cùng với Án Phu tử ngồi trên lầu thấy Lương Khâu Cứ đi tới. Tề hầu khen Khâu Cứ là người hợp ý với mình. Án Anh bác lại, nói rằng nếu bề tôi hợp ý với vua tức là phải biết hết mọi việc của vua chỗ nào đúng thì tuân theo, chỗ nào sai thì sửa gium vua; còn Khâu Cứ chỉ luôn a dua theo những lời của Cảnh công mà thôi. Tề hầu lại hỏi nếu người xưa không chết thì sẽ ra sao, Án Anh đáp rằng nếu quả như vậy thì người làm vua hưởng phú quý ở đất Tề là dòng dõi vua trước chứ không phải là nhà vua bây giờ nữa.

Tề Cảnh công có một con ngựa rất quý, nhưng một hôm con ngựa ấy không bệnh mà lăn đùng ra chết. Nhà vua tức giận lên người chăn ngựa, muốn xử tội phanh tay. Án Anh can ngăn rằng việc xử tội phanh thây là quá tàn ác, Cảnh công vẫn chưa nguôi giận, truyền đem giam vào ngục đợi ngày hành hình. Án Anh bèn đứng ra xin kể ba lý do giết tên chăn ngựa, để anh ta chết không hối tiếc, nhà vua đồng ý. Án Anh kể tội rằng

Thứ nhất, vua giao cho coi ngựa, mà không cẩn thận làm ngựa chết, tương đương với ngươi giết con ngựa, phải đền mạng.

Thứ hai, vì vua rất yêu con ngựa, nên phải khép anh ta vào tội chết.

Thứ ba, vua vì một con ngựa mà giết người, sẽ khiến thiên hạ đồn vua yêu ngựa chứ không quý người, và mọi người sẽ chê cười vua. Nhưng căn nguyên là người nuôi ngựa làm ngựa chết mới làm tức giận, nên càng đáng ban cho anh ta tội chết.

Tề Cảnh Công nghe thấy biết Án Anh can ngăn mình, đành phải tha tội cho người chăn ngựa. Năm 516 TCN, trên bầu trời Tề quốc xuất hiện Tuệ tinh là điềm gở, quần thần đều kêu khóc, xin làm lễ cầu yên. Chỉ có Án Anh là cười to mà thôi. Tề hầu giận hỏi vì sao, Án Anh nhân đó khuyên nhà vua hảo trị cung thất, khoan chính giảm hình thì không cần sợ điềm lành dở. Cảnh công theo lời khuyên đó, và hủy bỏ lễ cầu yên. Từ đây đến hết thời Cảnh công, Tề tiếp tục cường thịnh trong khi Tấn và Sở thì ngày một suy yếu.

Điền Nhương Thư

Sau cái chết của tam dũng sĩ, Nước Tấn và Yến quốc thừa cơ cử binh phạt Tề. Trước tình thế lưỡng đầu thọ địch, Án Anh đã tiến cử cho Tề Cảnh công một vị tướng tài là Điền Nhương Thư làm tướng. Giám quân Trang Giả đến trễ, Nhương Thư lấy quân lệnh giết chết hắn. Tề Cảnh công vội sai người cầm cờ tiết đến tha cho Giả. Nhương Thư nói rằng tướng cầm quân không cần tuân theo lệnh vua, lại trị tội người cầm cờ vì dám phi ngựa thẳng vào doanh trại, chém ngựa và phá xe để thế mạng sứ giả. Đối với quân sĩ thì hết lòng khích lệ, vì thế sĩ khí quân Tề lên cao, quân hai nước kia phải tháo chạy. Cảnh công bèn phong cho Nhương Thư chức Tư mã. Sau lại có người gièm pha Nhương Thư cầm nhiều binh quyền, lại là người thân tộc với Điền Vô Vũ, nên Cảnh công dần sinh nghi kị, dần bãi chức của Nhương Thư khiến ông ta uất ức mà chết. Di sản của Tư Mã Nhương Thư để lại cho đời là một quyển binh pháp, gọi là Tư Mã pháp.

Khổng Tử

Khoảng năm 517 TCN, Khổng Tử vì việc Lỗ quốc có loạn họ Quý, phải đào bôn đến Tề quốc. Tề Cảnh công hỏi Khổng Tử về việc trị quốc. Khổng Tử đáp: Vua ra vua, thần ra thần, cha ra cha, con ra con. Vua đáp rằng: Thiện tai. Giả như mà vua chẳng ra vua, thần chẳng ra thần, cha chẳng ra cha, con chẳng ra con, tuy có sung túc đấy, nhưng ta có thể nào ăn những thức ăn đấy được. Sự tích này được gọi là Tề Cảnh công vấn chánh ư Khổng Tử.

Tề hầu khâm phục tài của Khổng Tử, bàn về cách đối đãi như sau :Ta không thể đãi Khổng Tử như vua Lỗ đãi họ Quý (hàng thượng khanh), mà có thể đãi ông ấy vào bậc giữa họ Quý và họ Mạnh (họ Mạnh là Hạ khanh).

Và muốn muốn đem đất Ni Khê phong cho ông. Quần thần đứng đầu là Tướng quốc Án Anh đều phản đối. Cảnh công sau đó lại nói :Ta già rồi, không thể dùng Khổng Tử được.

Khổng Tử bèn bỏ đi, sau lại trở về nước Lỗ và lập công dẹp loạn Dương Hổ, được trọng dụng, lại theo phò Lỗ Định công ở cuộc họp Giáp Cốc (xem phần dưới). Sứ Tống là Hướng Thú sang Lâm Tri mời Tề đến dự, ban đầu Tề không chịu, nhưng Điền Tu Vô can ngăn rằng Tấn và Sở đã hứa, một mình Tề không chống lại được đâu, vì thế vua Tề bất đắc dĩ phải sai Khánh Phong và Điền Tu Vô (Điền Văn tử) tới hội. Trong buổi hội, chư hầu lấy Tấn hầu và Sở vương đứng đầu, Tề hầu và Tần bá là chư hầu hàng hai, Tống là chủ nhà, các nước còn lại tính vào số phiên thuộc. Đây là sự kiện độc nhất trong thời Xuân Thu. Mùa hạ năm 545 TCN, theo minh ước ở Tống, vua Tề cùng vua các nước khác phải đến triều kiến vua Tấn.

Năm 539 TCN, Tề Cảnh công sai Án Anh đi sứ Nước Tấn, thiết lập lại quan hệ hòa bình sau nhiều năm xung đột trong các đời vua trước. Tuy nhiên kể từ thời Tấn Chiêu công, quốc lực của Tấn suy yếu, Tề Cảnh công lại nảy sinh tham vọng tranh giành ngôi bá chủ.

Năm 530 TCN, Tề hầu cùng Vệ hầu, Trịnh bá đến dự yến tiệc do Tấn hầu tổ chức. Tướng lễ của nước Tấn khi đó là Trung Hàng Ngô (Mục Tử). Trung Hàng Ngô bày trò chơi cho Tấn hầu cùng Tề hầu ném thẻ vào cái hồ. Lúc Tấn Chiêu công cầm thẻ ném, Trung Hàng Ngô nói rằng nếu vua Tấn ném trúng sẽ làm chủ chư hầu, sau đó quả nhiên thẻ của Tấn hầu ném trúng. Đến lượt Tề Cảnh công cầm thẻ, cũng tự khấn rằng nếu mình ném trúng sẽ thay địa vị (bá chủ) của Tấn Chiêu công. Sĩ Văn Bá trách cứ Trung Hàng Ngô, nói rằng việc làm hôm đó sẽ khiến vua Tề tự phụ và không thần phục Tấn nữa. Sau đó tướng nước Tề là Công Tôn Tẩu kiếm cớ để đưa Tề hầu rời tiệc.

Từ sau sự kiện quan đại phu nước Tấn ăn của đút mà bỏ mặc để Nước Lỗ chiếm cứ đất của Nước Cử, thì các chư hầu dẫn đều là Tề đều không chịu thần phục nữa, bí mật hội riêng với nhau. Đến mùa thu năm 529 TCN, nước Tấn triệu tập chư hầu tại Bình Khưu, mà nước Tề không muốn phó hội. Đại phu Nước Tấn là Thúc Hướng vặn hỏi Tề hầu. Cảnh công trả lời rằng :Khi một chư hầu bội ước đã bị trừng phạt, thì mới họp lại để thề. Nhưng khi tất cả đều theo mệnh không trái, thì họp thề lại làm gì.

Thúc Hướng lại đem pháp độ nhà Chu mà vặn lại, Tề hầu đành phải tuân theo. Năm 528 TCN, ông lại cùng tướng quốc Án Anh sang Nước Lỗ học hỏi về lễ nghi. Đầu năm 526 TCN, Tề Cảnh công cử quân đánh Từ quốc, tiến đến đất Bồ Toại, người Từ xin hòa và tặng cho ông một cái đỉnh. Vua Tề bèn tổ chức hội thề với vua Từ, Đàm và Cử ở Bồ Toại.

Năm 505 TCN, sau vụ nước Tấn tập hợp 15 nước chư hầu bàn việc đánh Sở cứu Sái, mà quan đại phu Tuân Dần vì không có tiền hối lộ mà bãi binh, khiến uy tín của Nước Tấn không còn nữa. Nước Vệ vì thế bàn ngả sang Tề, cùng dự hội thề ở đất Tỏa (503 TCN). Vì thế khiến Tấn giận Vệ, trong buổi lễ chư hầu năm 502 TCN cố tình làm nhục Vệ hầu khiến Vệ nhất quyết theo Tề. Vua Tấn mới sai Phạm Ưởng dẫn quân hội với Lỗ tiến hành phạt Vệ, và phạt luôn cả Trịnh cũng đang ngả về phe Tề. Tề bèn đem quân giúp Trịnh và Vệ. Năm 502 TCN, ông cùng Vệ Linh công đi đánh Tấn, chiếm đất Di Nghi. Sau đó ông lại tấn công sang đất Trung Mâu, nhưng bị quân Trung Mâu đánh lui. Tề Cảnh công lui quân, tặng cho Vệ Linh công 3 ấp Chước, Di và Mạnh.

Năm 497 TCN, Tề và Vệ lại đánh Tấn, đóng quân ở đất Cúc Thị, nhiều đại phu can không nên đánh tiếp, chỉ có Bỉnh Ý Tư nói rằng viện quân Tấn không thể đến kịp là cơ hội để tấn công. Tề hầu giận các quan đại phu can ngăn, đã tước quyền đi xe của họ (trừ Bỉnh Ý Tư). Ông muốn bắt vua Vệ lên cùng xe với mình, nên giả cách sửa soạn chiến xe có đầy đủ giáp cụ, nói dối là quân Tấn đánh tới, rồi nói với Vệ Linh công rằng xe của quý quân chưa sửa soạn và hãy lên xe với mình, rồi đánh roi cho ngựa chạy; khi biết quân Tấn thực không tới thì mới dừng lại.

Quan hệ với các nước lân cận

Nước Yến và nước Cử

Năm 540 TCN, Yến Huệ công bị các họ quý tộc nổi chống lại phải chạy sang nước Tề lánh nạn. Đến mùa đông năm 536 TCN, đích thân Tề hầu đến Tấn giúp quân thảo phạt Bắc Yến, đưa Huệ công về nước. Tấn hầu sai Phạm Ưởng ra bờ sông Hoàng Hà đón vua Tề và cho mượn quân. Mùa xuân năm 535 TCN, khi quân Tề vừa tiến vào địa giới của Yến, các quý tộc Yến (phe chống lại Huệ công) dâng lễ vật, xin hòa đàm. Các cận thần bên cạnh Tề hầu cũng nhận tiền hối lộ, cũng nói giúp cho người Yến. Ông bèn cùng với người Yến hội thề tại Nhu Thượng. Người Yến lại dâng một người con gái trong họ cho Tề hầu nạp làm cung thiếp, một bình ngọc, một hộp ngọc và một đôi vòng, vì thế vua Tề đã đem quân về. Yến bá về sau bệnh chết ở Tề, người Yến lập Điệu công lên thay.

Năm 523 TCN, Cao Phát của Tề dẫn quân chinh phạt nước Cử, Cử tử chạy ra đất Kỷ Chương. Quân Tề truy kích đuổi tới vào ấp Kỷ Chương mới lui. Năm 520 TCN, tướng Tề là Quách Khai lại đánh nước Cử, đánh bại quân Cử ở đất Thọ Dư thuộc Nước Cử. Vua Cử phải xin hòa và thề với vua Tề ở Tắc Môn, Tề quốc. Năm 516 TCN, Tề quốc xuất hiện sao chổi. Cảnh công sai cúng giải. Án Anh can rằng chỉ cần tu sửa đức chính thì không sợ gì sao chổi, Tề hầu mới bỏ việc cúng.

Nước Lỗ

Năm 517 TCN, Lỗ Chiêu công bị quyền thần Quý tôn Ý Như đánh đuổi chạy sang nước Tề. Tề Cảnh công bèn mang quân đánh Lỗ, lấy đất Vận cho Lỗ Chiêu công ở. Đến năm 515 TCN, họ Mạnh và Dương Hổ tiến đánh đất Vận, Lỗ công lại thua trận. Nước Tề tuy trên danh nghĩa là giúp cho Lỗ công, nhưng lại ngầm câu kết với Tam Hoàn mà chần chừ trong việc tiến quân, lại có ý khinh thường Lỗ Chiêu công là ông vua mất nước. Lỗ Chiêu công cảm thấy bị xúc phạm nên không ở Vận nữa mà lánh sang đất Can Hầu thuộc Nước Tấn. Liền sau đó họ Quý chiếm được đất Vận, Lỗ Chiêu công oán hận mà chết vào cuối năm 510 TCN.

Năm 503 TCN, Tề Cảnh công xuất quân đánh vào phía tây của nước Lỗ. Đầu năm 502 TCN, Lỗ Định công (lên ngôi năm 509 TCN) hai lần công đánh vào Tề, tại các trận Dương Châu và Lẫm Khưu, tuy quân Lỗ giành được vài thắng lợi nhỏ nhưng không lâu sau thì rút lui. Mùa hạ năm đó, Tề quân do hai tướng Quốc Hạ, Cao Trương phản công tiến vào đất Lỗ. Lỗ Định công cầu cứu ở Nước Tấn. Cùng năm đó, tướng Dương Hổ nước Lỗ chống lại Tam Hoàn thất bại bèn chạy sang Tề xin Tề Cảnh công đánh Lỗ. Theo lời can của đại phu họ Bão, Tề Cảnh công không đáp ứng yêu cầu của Dương Hổ và bắt giam Hổ.

Năm 501 TCN, Tề và Lỗ giảng hòa với nhau, hai vua hẹn gặp ở Giáp Cốc, theo phò Lỗ công có Khổng Tử. Theo kế sách của Lê Di, vua Tề đem tù binh người Lai cho cầm theo vũ khi tới hội với ý định bắt cóc Lỗ công. Khổng Tử nhìn ra được mưu này và buộc vua Tề phải đuổi bọn người Lai đi. Khi sắp sáp huyết, người Tề thêm vào điều khoản nói rằng khi quân Tề ra khỏi nước thì phía Lỗ phải cử 300 chiến xa đi theo, thì Khổng Tử cũng đòi Tề phải trả lại đất ruộng Vân Dương đã chiếm trước kia. Vua Tề còn sai một tên hề Ưu Thi múa trước mặt Lỗ quân (để làm nhục), Khổng Tử liền sai chém Ưu Thi đi. Sau buổi hội đó Tề Cảnh công phải trả lại những vùng ruộng ở Vận, Hoàn và Quy Âm cho Lỗ.

Sau cuộc hội thề Giáp Cốc trở về thì được tin Án Anh ốm chết. Cảnh công than khóc rất nhiều, và lo lắng trong triều không còn người hiền tài. Lại thấy nước Lỗ được Khổng Tử mà đang dần cường mạnh lên, cảm thấy bị đe dọa. Năm 498 TCN, nhân dịp hẹn với Lỗ Định công ở đất Hoàng, Tề hầu theo kế của Lê Di, sai người đưa quốc thư và dâng nữ nhạc cho Lỗ công, trong khi nói rằng :Tôi là Chử Cữu, cúi đầu dâng Lỗ quân hầu mấy lời. Khi trước hội ở Giáp Cốc, tôi có thất lễ với quân hầu, trong lòng vẫn lấy làm hổ thẹn, may mà quân hầu có lòng dung thứ, cho tôi được giao hiếu như xưa. Từ ngày ấy đến giờ, trong nước nhiều việc không sang sính vấn được, nay có mấy đội ca vũ, để khuây lòng điện hạ; bảy cỗ ngựa hay, để êm xe điện hạ, xin đem dâng quân hầu, gọi là chút lòng kính mến, xin quân hầu nhận cho..

Lỗ công và Quý tôn Tư nhận được nữ nhạc, dần sa vào thanh sắc mà xa lánh Khổng Tử. Khổng Tử khuyên can không được, đành bỏ đi chu du liệt quốc. Vì thế nước Lỗ không thể cường thịnh lên được nữa.

Những năm cuối

Can thiệp vào nội chiến ở Tấn và Vệ

Sau khi tướng quốc Án Anh mất (501 TCN), Tề Cảnh công cũng cao tuổi, chính sự nước Tề kém đi. Năm 493 TCN, họ Phạm và họ Trung Hàng nước Tấn tranh chấp quyền lực với 4 họ thượng khanh khác, sai người cầu cứu nước Tề. Tề Cảnh công nghe lời Điền Khất bèn giúp thóc cho họ Phạm và họ Trung Hàng, lại hội các chư hầu Tống, Lỗ và Vệ bàn việc cứu họ Phạm, nhưng đến cuối cùng thì hai họ này cũng bị diệt. Khoái Quý chạy sang Thích ấp nương nhờ Nước Tấn, hai cha con một trong một ngoài chống cự với nhau. Tề Cảnh công vì đối kháng với Tấn nên ngả theo phe của Vệ Xuất công. Năm 492 TCN, ông sai Quốc Hạ cầm quân giúp Vệ đánh ấp Thích, nhưng không thắng phải lui về.

Truyền ngôi

Tề Cảnh công có nhiều vợ và nhiều con trai. Người vợ cả là Yển Cơ, sinh được một con trai không rõ tên. Năm 490 TCN, người con này qua đời. Khi Cảnh công đã già, Khương Đồ còn nhỏ và ít đức. Vì yêu quý Khương Đồ, Cảnh công muốn lập làm thế tử. Các đại phu can ngăn Tề Cảnh công nên chọn trong số những người con thứ đã lớn tuổi lên nối ngôi nhưng ông không nghe.

Mùa thu năm 490 TCN, Tề Cảnh công ốm nặng, bèn lệnh cho đại phu Cao Trương (Cao Chiêu tử) và Quốc Hạ (Quốc Huệ tử) giúp Khương Đồ làm vua và đuổi những người con lớn sang đất Lai

Trích ghi chép trong Luận ngữ :Tề Cảnh công có 4000 cỗ xe ngựa. Vào lúc chết dân không có gì để khen ngợi. Bá Di, Thúc Tề chết đói ở dưới núi Thủ Dương, đến nay dân còn khen.

Hứa Hàn phê bình hành động của vua Tề khư khư tham lợi ở Từ và Cử mà bỏ đi điều đại nghĩa, vì thế mà không thành nghiệp bá :Thời Cảnh công, nước Việt tranh đấu. Nước Tấn đã không thu xếp được, nước Tề lại mạnh. Giả sử nuôi đức sửa chánh, bền chí hùng cường rồi cử họp chư hầu, phục hưng nghiệp Bá, thì có thể được lắm. Thế mà khư khư tranh đất nước Từ, nước Cử, tham lợi nhỏ, xem thế thật là hèn kém.

Lăng mộ

thumb|right|Những bộ xương ngựa được phát hiện gần mộ của Tề Cảnh công.

Ngôi mộ của Tề Cảnh công được phát hiện tại làng Nhai Đầu phía đông bắc kinh thành Lâm Tri của ngày xưa. Năm 1964, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra ngôi mộ này và tìm thấy ở phía bắc ngôi mộ 145 bộ xương ngựa, rất có thể chúng là vật tùy táng.

Bãi chôn những bộ xương ngựa dài 215 mét (705 ft) bao quanh 3 phía của ngôi mộ. Năm 1982, các nhà khảo cổ lại khai quật thêm được 36,5 mét (120 ft) và 106 bộ xương ngựa. Tuy ngôi mộ chưa được khai quật hoàn toàn, nhưng người ta ước tính có khoảng 600 con ngựa tùy táng ở đó, và có thể là ngôi mộ có nhiều ngựa tùy táng nhất ở Trung Quốc.

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Tề Cảnh công** (chữ Hán: 齊景公, bính âm: Qí Jǐng Gōng; cai trị: 547 TCN – 490 TCN), họ **Khương** (姜) hay **Lã** (呂), tên thật là **Chử Cữu** (杵臼), là vị quốc quân thứ
**Tề Điệu công** (chữ Hán: 齊悼公; cai trị: 488 TCN-485 TCN), tên thật là **Khương Dương Sinh** (姜陽生), là vị vua thứ 28 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung
**Tề Hậu Trang công** (chữ Hán: 齊後莊公; cai trị: 553 TCN – 548 TCN), tên thật là **Khương Quang** (姜光), là vị vua thứ 25 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tề Giản công** (chữ Hán: 齐简公; cai trị: 484 TCN-481 TCN), tên thật là **Khương Nhiệm** (姜壬), là vị vua thứ 29 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc.
**Tề Khoảnh công** (chữ Hán: 齊頃公; cai trị: 598 TCN – 581 TCN), tên thật là **Khương Vô Giã** (姜無野), là vị vua thứ 23 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Cảnh Công** (chữ Hán: 景公) là thụy hiệu của một số vị quân chủ và sứ quân. ## Danh sách * Đông Chu Tề Cảnh công * Đông Chu Tấn Cảnh công * Đông Chu
**Tề Ý công** (chữ Hán: 齊懿公; cai trị: 612 TCN – 609 TCN), tên thật là **Khương Thương Nhân** (姜商人), là vị vua thứ 21 của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch
**Tề Tương công** (; ?-686 TCN) là người cai trị thứ 14 của nước Tề, một trong các thế lực chính vào thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông có họ (tính) là
**Tề Đinh công** (chữ Hán: 齊丁公), tên thật là **Khương Cấp** (姜伋) hay **Lữ Cấp** (吕伋), là vị vua thứ hai của nước Tề - chư hầu nhà Chu trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Tấn Cảnh công** (chữ Hán: 晋景公, cai trị: 599 TCN – 581 TCN), tên thật là **Cơ Cứ** (姬据), là vị vua thứ 28 của nước Tấn - chư hầu nhà Chu trong lịch sử
**Họ Điền thay Tề** (chữ Hán: 田氏代齐, _Điền thị đại Tề_) là sự kiện lịch sử xảy ra và kéo dài từ cuối thời Xuân Thu đến đầu thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung
**Tống Cảnh công** (chữ Hán: 宋景公, ?-469 TCN, trị vì 516 TCN-453 TCN hay 516 TCN-469 TCN), tên thật là **Tử Đầu Mạn** (子頭曼), là vị vua thứ 28 của nước Tống - chư hầu
**Khương Tề** (chữ Hán: 姜齐), hay **Khương tính Tề quốc** (姜姓齐国), là một giai đoạn lịch sử của nước Tề, một chư hầu nhà Chu ở thời kì Xuân Thu, do Khương Tử Nha được
**Tề An Nhũ Tử** (chữ Hán: 齊晏孺子; ở ngôi: 489 TCN), tên thật là **Khương Đồ** (姜荼) có tài liệu chép là _Khương Xá (姜舍)_, là vị vua thứ 27 của nước Tề - chư
- CÔNG DỤNGViên Vai Gáy Isopharco là thực phẩm bảo vệ sức khỏe có công dụng giúp thông kinh, hoạt huyết, hoạt lạc và hỗ trợ giúp giảm đau vai gáy, đau mỏi cổ, tê
Cụm từ _ 'Đệ Ngũ quốc tế' hay "Quốc tế thứ năm" _ đề cập đến những nỗ lực của các nhóm xã hội chủ nghĩa để tạo ra một tổ chức quốc tế cánh
**Cánh cổng xanh** (tiếng Anh: Blue Gate Crossing, tiếng Hoa: 藍色大門, Hán Việt: Lam sắc đại môn) là một bộ phim năm 2002 của Đài Loan đạo diễn bởi Dịch Trí Ngôn. Phim đoạt giải
**Vụ sai phạm tại Công ty cổ phần Công nghệ Việt Á**, hay còn gọi ngắn gọn là **vụ Việt Á** hoặc **đại án Việt Á,** là một vụ án hình sự điển hình về
**Sân bay quốc tế Tân Sơn Nhất** (tên giao dịch chính thức: **Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất**; IATA: **SGN**; ICAO: **VVTS**) là sân bay quốc tế lớn nhất Việt Nam hiện tại.
**Thôi Huệ Cảnh** hay **Thôi Tuệ Cảnh** (chữ Hán: 崔慧景; 438—500), tự **Quân Sơn**, người phía đông Vũ Thành, Thanh Hà; là tướng lĩnh nhà Lưu Tống và nhà Nam Tề thời Nam Bắc triều
**Ireland** (phiên âm: "Ai-len"; phát âm tiếng Anh: ; ), hay còn được gọi chi tiết là **Cộng hòa Ireland** (, ), là một quốc gia ở tây bắc châu Âu, chiếm khoảng 5/6 diện
So sánh GDP TQ **Nền kinh tế của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là một nền kinh tế đang phát triển định hướng thị trường kết hợp kinh tế kế hoạch thông qua các
**Lỗ Chiêu công** (chữ Hán: 魯昭公, ở ngôi: 542 TCN-510 TCN), tên thật là **Cơ Trù** (姬裯). ## Quan hệ với chư hầu Ba họ con cháu Lỗ Hoàn công là Thúc, Mạnh và Quý
**Vệ Linh công** (chữ Hán 衛靈公,?-493 TCN, trị vì 534 TCN - 493 TCN), tên thật là **Vệ Nguyên** (衛元), là vị vua thứ 28 của nước Vệ - chư hầu nhà Chu trong lịch
Dây thìa canh là một trong những loại dược liệu quý được cha ông ta sử dụng từ xa xưa để điều trị nhiều bệnh lý khác nhau. Tuy nhiên nếu bạn không biết cách
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
**Tình báo kinh tế** (hay còn gọi là **Gián điệp kinh tế**) là toàn bộ những hoạt động tìm kiếm, xử lý, truyền phát và bảo vệ thông tin có ích cho các thành phần
**Quyết định luận công nghệ** là một lý thuyết giản hóa luận mà giả định rằng công nghệ của xã hội thúc đẩy sự phát triển cấu trúc xã hội và các giá trị văn
**Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh**, còn được gọi là **Đại học UEH** () là đại học đa thành viên chuyên khối kinh tế hệ công lập, thuộc nhóm đại học trọng
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa România** (), trước ngày 21 tháng 8 năm 1965 được gọi là **Cộng hòa Nhân dân România** ( (1947–1954, 1963–1965) hoặc (1954–1963)), là giai đoạn trong lịch sử România
nhỏ|Tuyên ngôn do Những người cộng sản cách mạng ở Đức ban hành - là một nhóm cộng sản cánh tả ở nước Pháp do Đức Quốc xã chiếm đóng, nổi tiếng vì chống lại
**_Liên minh Công lý_** (tựa tiếng Anh: **_Justice League_**) là bộ phim siêu anh hùng của hãng Warner Bros., được Zack Snyder đạo diễn và dựa theo các nhân vật nổi tiếng cùng tên của
**Cảnh quan văn hóa** theo định nghĩa của Ủy ban Di sản Thế giới, là "tài sản văn hóa đại diện cho các công trình kết hợp của thiên nhiên và con người". # "một
**Kinh tế Việt Nam** là một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang phát triển, phụ thuộc lớn vào nông nghiệp, du lịch, xuất khẩu thô và đầu tư trực
**Nguyễn Cảnh Kiên** (阮景健 21 tháng 8 1553 - 4 tháng 8 1619) là một vị tướng thời Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, làm quan tới chức Tả Đô đốc Thượng tướng
**Lỗ Định công** (chữ Hán: 魯昭公 trị vì 509 TCN-495 TCN), tên thật là **Cơ Tống** (姬宋), là vị vua thứ 26 của nước Lỗ - chư hầu nhà Chu trong Lịch sử Trung Quốc.
**Đại học Quốc tế Florida** là một trường đại học nghiên cứu công lập với khuôn viên chính tại University Park, Florida, Hoa Kỳ. Được thành lập vào năm 1965 bởi Quốc hội Florida, trường
**Nền kinh tế Bồ Đào Nha** là nền kinh tế lớn thứ 34 theo Báo cáo cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới trong năm 2019. Phần lớn hoạt động thương
**Chính sách kinh tế mới (NEP)** () là một chính sách kinh tế của Liên Xô được đề xuất bởi Vladimir Lenin năm 1921 như một biện pháp tạm thời. Lenin đã miêu tả NEP
**Tần Mục công** (chữ Hán: 秦穆公; 683 TCN - 621 TCN), còn gọi là **Tần Mâu công** (秦繆公), tên thật **Doanh Nhậm Hảo** (嬴任好), là vị quốc quân thứ 14 của nước Tần - chư
**_Chúa tể những chiếc nhẫn: Hai tòa tháp_** (_The Lord of the Rings: The Two Towers_) là một bộ phim viễn tưởng được sản xuất năm 2002 của đạo diễn Peter Jackson. Đây là bộ
**_Chúa tể những chiếc nhẫn: Sự trở lại của nhà vua_** (tiêu đề tiếng Anh: **_The Lord of the Rings: The Return of the King_**) là bộ phim điện ảnh phiêu lưu kỳ ảo của
**_Cha cõng con_** (tựa tiếng Anh: **_Father and son_**) là bộ phim điện ảnh độc lập, thể loại gia đình của điện ảnh Việt Nam được phát hành vào tháng 4 năm 2017. Bộ phim
**Bộ Công an Trung Quốc** () là một bộ của chính phủ Trung Quốc phụ trách an ninh công cộng và chính trị. Bộ Công an quản lý hơn 1,9 triệu cảnh sát thi hành
**Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XII**, được gọi chính thức là **Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII** là đại hội lần thứ 12 của Đảng Cộng sản Việt
**Phát triển kinh tế** là quá trình lớn lên, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế và đồng thời có sự hoàn chỉnh về mặt cơ
**Đảng Cộng sản Triều Tiên **(), thường gọi tắt là **Triều Cộng**, là một chính đảng theo chủ nghĩa cộng sản được Quốc tế Cộng sản thành lập tại một hội nghị bí mật ở
**Trường Trung cấp Cảnh sát nhân dân V** (**T52**) trực thuộc Bộ Công an Việt Nam có trách nhiệm đào tạo chuyên ngành cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, Trinh sát phòng, chống
nhỏ|Cổng trường Đại học kinh tế quốc dân (phố Vọng) **Đại học Kinh tế Quốc dân** (tiếng Anh: _National Economics University_, **NEU**) là một đại học định hướng nghiên cứu đầu ngành trong khối các
**Cộng đồng Kinh tế châu Âu** (, viết tắt là **EEC**) cũng gọi đơn giản là **Cộng đồng châu Âu**, ngay cả trước khi nó được đổi tên chính thức thành _Cộng đồng châu Âu_