Oát Nhĩ Đóa (chữ Hán: 斡耳朵; ; Chuyển tự Latinh: orda,ordu,ordon,horde), còn được gọi là Oát Lỗ Đóa (斡鲁朵), Oát Lý Đóa (斡里朵), Oát Nhi Đóa (斡兒朵), Oa Lý Đà (窩里陀) hoặc Oát Nhĩ Đóa (斡爾朵), theo hệ ngôn ngữ Đột Quyết, Khiết Đan và Mông Cổ tức ám chỉ đến cung điện du mục và hệ thống quản lý gia quyến riêng của các Khả hãn, tức Khả đôn và hậu cung.
Khái quát
Từ nguyên Oát Nhĩ Đóa đến từ từ [Ordu], theo ngữ hệ Turk là nói đến lều trại, cung điện, một quần thể nơi các vị thủ lĩnh du mục thể hiện quyền uy của mình, Hán ngữ gọi là Cung trướng (宮帳). Theo tập tục du mục, những vị thủ lĩnh tối cao cùng vợ con của họ đều có những cung trướng riêng của mình, đây không chỉ nói đến một túp lều trại, mà còn bao gồm người hầu, nô lệ và lính gác riêng, mặc sức cho mỗi cá nhân hoặc nhóm cá nhân quản lý.
Triều đại nhà Liêu liết lập Oát Nhĩ Đóa như một hệ thống bảo an lưu động dành riêng cho Hoàng đế, hễ khi Hoàng đế ra ngoài cũng là nguyên một hệ thống này đi theo bảo vệ, khi Hoàng đế ở lại hoàng cung hoặc dừng chân ở đâu thì họ tự động thiết đặt bảo vệ tại nơi đó. Sau khi Hoàng đế nhà Liêu nào qua đời, Oát Nhĩ Đóa của họ có nhiệm vụ vĩnh viễn trấn giữ lăng tẩm cho chủ nhân.
Liêu sử ghi lại các Oát Nhĩ Đóa trứ danh:
- Toán Oát Lỗ Đóa (算斡鲁朵), lại gọi Hoằng Nghĩa cung (弘義宮), thuộc về Liêu Thái Tổ;
- Bồ Tốc Oát Lỗ Đóa (蒲速斡鲁朵), lại gọi Trường Ninh cung (長寧宮), thuộc về Liêu Thái Tổ hoàng hậu Thuật Luật Bình;
- Quốc A Liễn Oát Lỗ Đóa (國阿輦斡魯朵), lại gọi Vĩnh Hưng cung (永興宮), thuộc về Liêu Thái Tông;
- Gia Lỗ Oát Lỗ Đóa (耶鲁斡鲁朵), lại gọi Tích Khánh cung (積慶宮), thuộc về Liêu Thế Tông;
- Đoạt Lý Bổn Oát Lỗ Đóa (奪裏本斡魯朵), lại gọi Diên Xương cung (延昌宮), thuộc về Liêu Mục Tông;
- Giam Mẫu Oát Lỗ Đóa (鑑母斡魯朵), lại gọi Chương Mẫn cung (彰愍宮), thuộc về Liêu Cảnh Tông;
- Cô Ổn Oát Lỗ Đóa (孤穩斡魯朵), lại gọi Sùng Đức cung (崇德宮), thuộc về Liêu Cảnh Tông hoàng hậu Tiêu Xước;
- Nữ Cổ Oát Lỗ Đóa (女古斡魯朵), lại gọi Hưng Thánh cung (興聖宮), thuộc về Liêu Thánh Tông;
- Oa Đốc Oát Lỗ Đóa (窩篤斡魯朵), lại gọi Diên Khánh cung (延慶宮), thuộc về Liêu Hưng Tông;
- A Tư Oát Lỗ Đóa (阿思斡魯朵), lại gọi Thái Hòa cung (太和宮), thuộc về Liêu Đạo Tông;
- A Lỗ Oát Lỗ Đóa (阿鲁斡鲁朵), lại gọi Vĩnh Xương cung (永昌宮), thuộc về Liêu Thiên Tộ Đế;
- Xích Thật Đắc Bổn Oát Lỗ Đóa (赤寔得本斡魯朵), lại gọi Đôn Mục cung (敦睦宮), thuộc về em trai Liêu Thánh Tông là Gia Luật Long Khánh;
Chế độ này của nhà Liêu, còn gọi Cung phân (宮分) hay Cung vệ (宮衛), về cơ bản lấy Chính hộ (正戶; tức hộ người Khiết Đan), Phiền Hán chuyển hộ (蕃漢轉戶; hộ người Hán và dân tộc khác) cùng Xuất kỵ quân (出騎軍) làm cơ sở. Những hộ này theo lệ phải cung ứng thuế ruộng, lao dịch, ngoài ra cứ mỗi 4 nam đinh thì sẽ có một người đi lính, tức lính kỵ binh. Theo Liêu sử tổng kết phần Quan vệ chí (營衛志) thì tổng Kỵ binh triệu tập qua 12 Oát Lỗ Đóa đã hơn 100.000 đơn vị. Những hộ dân trực thuộc Oát Lỗ Đóa được gọi là Cung tịch (宮籍), vĩnh viễn không thể thoát ly, đến như đại công thần Hàn Đức Nhượng, mãi cho đến khi Thừa Thiên Hoàng thái hậu Tiêu Xước đặc mệnh cho thoát ly Cung tịch, mới có thể đưa về Hoành trướng (橫帳) theo thân phận mới, một thành viên trong hoàng thất Gia Luật thị của triều đình.
Về tổng quan, chế độ Oát Lỗ Đóa, được gọi thành "Cung", cùng chế độ "Trướng" đã hình thành chế độ toàn diện được gọi là Cung trướng giúp nhà Liêu quản lý cả một đế chế rộng lớn. Cung biểu thị Oát Lỗ Đóa, Trướng là nói đến các loại bộ tộc thân thích với hoàng thất Gia Luật thị, bao gồm Dao Liễn thị Cửu trướng (遙輦氏九帳), Hoành trướng Tam phụ phòng (橫帳三父房) và Quốc cữu Ngũ phòng (國舅五房).
Chế độ Nguyên Mông
Khi Mông Cổ hưng thịnh dưới thời Thành Cát Tư Hãn, ông cũng đem đất đai và thuộc nhân, nô lệ đều chia ra làm bốn cái Oát Nhĩ Đóa, phân biệt do 4 vị Khả đôn (văn bản gọi Hoàng hậu) có địa vị cao là Bột Nhi Thiếp, Hốt Lan, Dã Toại và Dã Toại Can làm thủ lĩnh. Sau khi Thành Cát Tư Hãn qua đời, đại bộ phận Oát Nhĩ Đóa do con trai và Hậu phi lần lượt kế thừa, như Đệ nhất Oát Nhĩ Đóa là do Đà Lôi - con trai của Thành Cát Tư Hãn và Đại Khả đôn Bột Nhi Thiếp kế thừa.
Sau khi nhà Nguyên thành lập, Đại Đô trở thành cung điện đất bằng mà không còn là lều trại, nhưng Oát Nhĩ Đóa vẫn tồn tại như một chế độ gốc gác bản sắc. Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt noi theo cụ tổ Thành Cát Tư Hãn, thiết kế cho mình bốn cái Oát Nhĩ Đóa và cũng do các bà vợ Thiếp Cổ Luân và Sát Tất làm chủ. Các loại Oát Nhĩ Đóa này theo chế độ mới đều có phong ấp của riêng, cũng vẫn lại có thuộc nhân và thu nhập hoàn toàn độc lập. Nguyên triều vừa thành lập, Hốt Tất Liệt vì quản lý bốn cái Oát Nhĩ Đóa của Thành Cát Tư Hãn mà thiết lập Tổng quản phủ (總管府) quản lý đất đai và thuộc hộ dân cư, lại cho mệnh Hoàng tôn Cam Ma Lạt (甘麻剌) và con cháu thụ tước Tấn vương, trực tiếp quản lý bốn cái Oát Nhĩ Đóa của Thành Cát Tư Hãn. Cả bốn cái Oát Nhĩ Đóa này tại Phúc Lý (腹里; nay là Nội Mông Cổ, Hà Bắc, Sơn Tây và Sơn Đông), nơi có 90.000 hộ, tiến hành thiết lập hệ thống trưng thu một loại thuế khi ấy, cứ 5 hộ cho ra một đơn vị Ti (nghĩa là lụa), được gọi là Ngũ hộ ti (五戶絲). Đồng thời cũng ở tại Cống Châu lộ (赣州路; nay là khu vực Giang Tây), nơi có mấy vạn hộ, triều đình Nguyên thiếp lập trưng thu tiền thuế của toàn hộ dân, được gọi là Giang Nam hộ sao (江南戶鈔). Mỗi năm, triều đình còn tài trợ ngân lượng, lụa là, được gọi là Tuế tứ (歲賜). Có thể nói chế độ Oát Nhĩ Đóa này thu vào một lượng lớn tài sản riêng cho người sở hữu, mà quan trọng rằng Oát Nhĩ Đóa của Hoàng đế sau khi qua đời vẫn tiếp tục được duy trì như một cách tôn trọng tiền nhân. Ba mức chuẩn cấp "Ngũ hộ ti", "Giang Nam hộ sao" và "Tuế tứ" này không chỉ áp dụng cho các Oát Nhĩ Đóa mà còn là ba mức cơ sở thu thực ấp của các thành viên hoàng thất triều Nguyên, những nhân vật cụ thể như Hoàng tử, Công chúa hay Hoàng hậu cũng dựa vào cả ba mức, hoặc hai hoặc một để có thực ấp chi tiêu riêng.
Bản thân các vị Hoàng đế nhà Nguyên theo truyền thống cũng tự thiết đặt riêng cho mình hệ thống Oát Nhĩ Đóa, ngoại trừ Hốt Tất Liệt có hẳn bốn cái, thì các Hoàng đế về sau mỗi người chỉ có một cái Oát Nhĩ Đóa, sau khi Hoàng đế qua đời thì Oát Nhĩ Đóa này do Hậu phi quản lý, hoặc có chuyên chức quan viên hay cơ quan chuyên biệt quản lý, và các Oát Nhĩ Đóa này mỗi năm đều dựa vào Ngũ hộ ti, Giang Nam thuế và Tuế tứ như cũ mà thu vào. Ví dụ, Oát Nhĩ Đóa của Nguyên Thế Tổ và Nguyên Minh Tông lần lượt do hai vị Hoàng hậu góa phụ là Tốc Ca Đáp Tư và Thoát Hốt Tư chưởng quản, còn như Oát Nhĩ Đóa của Nguyên Vũ Tông là do Trường Khánh tự (長慶寺) quản lý.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Oát Nhĩ Đóa** (chữ Hán: 斡耳朵; ; Chuyển tự Latinh: orda,ordu,ordon,horde), còn được gọi là **Oát Lỗ Đóa** (斡鲁朵), **Oát Lý Đóa** (斡里朵), **Oát Nhi Đóa** (斡兒朵), **Oa Lý Đà** (窩里陀) hoặc **Oát Nhĩ Đóa**
**Tế Nhĩ Cáp Lãng** (; ; 19 tháng 11, 1599 - 11 tháng 6, 1655), Ái Tân Giác La, là một quý tộc, lãnh đạo chính trị và quân sự Mãn Châu vào đầu thời
thumb|[[Thành Cát Tư Hãn và vợ ông, Khả đôn Bột Nhi Thiếp.]] **Khả đôn** (chữ Hán: 可敦; ), còn gọi **Khả tôn** (可孙), **Khả hạ đôn** (可贺敦) hay **Cáp đồn** (哈屯), là một tước hiệu
**Biệt Nhi Ca Hãn** (1208 - 1266) (**Berke** hay **Birkai**; , ) là một tướng lĩnh Mông Cổ, khả hãn Kim Trướng hãn quốc, và cháu nội của Thành Cát Tư Hãn. Biệt Nhi Ca
**Hốt Tất Liệt** (, _Xubilaĭ Khaan_, ; 23 tháng 9, 1215 - 18 tháng 2, 1294), Hãn hiệu **Tiết Thiện Hãn** (ᠰᠡᠴᠡᠨ ᠬᠠᠭᠠᠠᠨ, Сэцэн хаан, _Sechen Khan_), là Đại Hãn thứ năm của đế quốc
**Nô Hãn** (chữ Hán: 奴罕) là một Hoàng hậu của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt - vị Hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Nguyên trong lịch sử Trung Quốc. ## Tiểu sử
**Khang Huệ Thục phi** (chữ Hán: 康惠淑妃), Bát Nhĩ Tế Cát Đặc thị, tương truyền có tên **Ba Đặc Mã Tảo** (巴特瑪璪), trước là thiếp của Lâm Đan Hãn, sau trở thành phi tần của
**Hốt Lan** (, chữ Mông Cổ: Хулан, chữ Hán: 忽蘭, khoảng 1164 – khoảng 1215), còn gọi là _Khulan_, hay _Qulan_, thứ thất của Mông Cổ Đại đế Thành Cát Tư Hãn, đồng thời, bà
**Bắc Kinh** có lịch sử lâu dài và phong phú, nguyên truy từ cách nay 3.000 năm. Trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN, Bắc Kinh là thủ đô
**Tiếng Mãn Châu** hay **Tiếng Mãn**, thuộc ngữ hệ Tungus, là tiếng mẹ đẻ của người Mãn Châu ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và từng là một trong những ngôn ngữ chính thức của
**Nguyên Minh Tông** hay **Hốt Đô Đốc hãn** (chữ Hán: 忽都篤汗, ; 22 tháng 12, 1300 - 30 tháng 8 1329), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Hòa Thế Lạt** (孛兒只斤和世㻋, Borjigin Küsele, ),
**Ligdan Khutugtu Khan** (tiếng Mông Cổ: Ligden Khutugt Khan; ký tự Cyrill: Лигдэн Хутугт хаан, chữ Hán: 林丹汗; Hán-Việt: _Lâm Đan hãn_; 1588 – 1634) là Khả hãn chính thức cuối cùng của triều đại
**Sát Tất** (chữ Hán: 察必; chữ Mông Cổ: ᠴᠠᠪᠢ; Romaji: Čabui; khoảng năm 1216 - 20 tháng 3, 1281), Hoằng Cát Lạt thị, kế thất của Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt, nhưng là Hoàng
**Gintaisi** (chữ Mãn: Hình:gintaisi.png; ? – 29 tháng 9 năm 1619), tài liệu Trung Quốc chép là **Jintaishi** (, _Kim Đài Thạch_, _Cẩm Đài Thập_), hay **Jintaiji** (, _Kim Đài Cát_), là Bối lặc cuối
thumb|Hậu cung ở Trung Á **Phi tần** (chữ Hán: _妃嬪_, tiếng Anh: _Imperial consort_ / _Royal concubine_), **Thứ phi** (_次妃_), **Tần ngự** (_嬪御_) hoặc **Cung nhân** (_宮人_), là những tên gọi chung cho nàng hầu
**Ý Tĩnh Đại Quý phi** (chữ Hán: 懿靖大貴妃; ? - 1674), Bát Nhĩ Tể Cát Đặc thị, thông gọi **Nang Nang** (囊囊), có thuyết tên thật là **Đức Lặc Cách Đức Lặc** (德勒格德勒), lại có
thumb|phải|Tranh vẽ các tiểu hoàng tử của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng tử** (chữ Hán: 皇子; tiếng Anh: _Imperial Prince_), mang nghĩa _"Con trai của Hoàng thất"_, là danh từ chỉ những người con trai của
thumb|Tranh vẽ các tiểu hoàng nữ của [[Minh Hiến Tông.]] **Hoàng nữ** (chữ Hán: 皇女; tiếng Anh: _Imperial Princess_), cũng gọi **Đế nữ** (帝女), là con gái do Hậu phi sinh ra của Hoàng đế
**Kim sử** (chữ Hán: 金史) là một bộ sách lịch sử trong 24 bộ sách sử của Trung Quốc (Nhị thập tứ sử), do Thoát Thoát biên soạn năm 1345. Tổng cộng có 135 quyển
**Kim Thái Tổ** (chữ Hán: 金太祖, 1 tháng 8 năm 1068 – 19 tháng 9 năm 1123) là miếu hiệu của vị hoàng đế khai quốc của nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa, trị
**Cuộc xâm lược châu Âu của người Mông Cổ** vào thế kỷ 13 là một loạt các cuộc chiến nhằm chinh phục mảnh đất này của người Mông Cổ, bằng con đường tiêu diệt các
**Nhà Liêu** hay **Liêu triều** ( 907/916-1125), còn gọi là nước **Khiết Đan** (契丹國, đại tự Khiết Đan: Tập tin:契丹國.png) là một triều đại phong kiến do người Khiết Đan kiến lập trong lịch sử
**Nội Mông Cổ** (tiếng Mông Cổ: Hình:Oburmonggul.svg, _Öbür Monggol_; ), tên chính thức là **Khu tự trị Nội Mông Cổ,** thường được gọi tắt là **Nội Mông**, là một khu tự trị của Cộng hòa
**Nguyên sử** (tiếng Trung: 元史, bính âm: Yuán Shǐ) là một tác phẩm do Tống Liêm (1310-1381) và một số quan lại khác phụng mệnh Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương biên soạn năm 1370.
**Thành Cát Tư Hãn** (; tên thật: **Temüjin**; phiên âm Hán-Việt: **Thiết Mộc Chân**; tháng 8 năm 1227) là người sáng lập và khả hãn đầu tiên của Đế quốc Mông Cổ. Sau khi dành
phải|247x247px **Mạnh Đặc Mục** (, , 1370 - 1433), cũng gọi là Mãnh Ca Thiếp Mộc Nhĩ/Nhi (猛哥帖木耳, 猛哥帖木兒), là thủ lĩnh bộ lạc Oát Đóa Lý vào cuối thời nhà Nguyên, đầu thời nhà
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
**Hoàn Nhan Lượng** (chữ Hán: 完顏亮, 24 tháng 2 năm 1122 - 15 tháng 12 năm 1161), tên Nữ Chân là **Hoàn Nhan Địch Cổ Nãi** (完顏迪古乃), tên tự **Nguyên Công** (元功), thụy hiệu là
**Kiến Châu Nữ Chân** () là một trong tam đại bộ của người Nữ Chân vào thời nhà Minh. Họ là nhóm cực nam của người Nữ Chân, hai nhóm khác là Dã Nhân Nữ
**Đế quốc Mông Cổ**, tên chính thức là **Đại Mông Cổ Quốc** ( ) là đế quốc du mục lớn nhất trong lịch sử, từng tồn tại trong các thế kỷ 13 và 14. Khởi
**Hiếu Khang Chương Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝康章皇后; ; 29 tháng 2, năm 1640 - 20 tháng 3, năm 1663), thường gọi **Từ Hòa Hoàng thái hậu** (慈和皇太后), là phi tần của Thanh Thế Tổ
thumb|Văn bản [[Thông phổ (通谱) chữ Mãn, ghi lại cách gọi Đông Giai thị.]] **Đông Giai thị** (chữ Hán: 佟佳氏; ), còn được gọi là **Đồng Giai thị**, **Đồng thị** hay **Đông thị**, là một
**Nguyên Anh Tông** (chữ Hán: 元英宗; 1302 - 1323), tên thật là **Bột Nhi Chỉ Cân Thạc Đức Bát Thích** (Borjigin Shidibala), là Hoàng đế thứ năm của nhà Nguyên và là Đại hãn thứ
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Tây Liêu** () (1124 hoặc 1125-1218), hay còn gọi là **Hãn quốc Kara-Kitai** () hay **Tây Khiết Đan** quốc hiệu chính thức là **Đại Liêu** (), là một nhà nước của người Khiết Đan ở
**Botulinum** là một protein thuộc nhóm neurotoxin do vi khuẩn _Clostridium botulinum_ tạo ra. Nó có công thức phân tử là C6760 H10447N1743O2010S32. Nó là chất độc gây chết người mạnh nhất từng được biết,