✨Kim Thái Tổ
Kim Thái Tổ (chữ Hán: 金太祖, 1 tháng 8 năm 1068 – 19 tháng 9 năm 1123) là miếu hiệu của vị hoàng đế khai quốc của nhà Kim trong lịch sử Trung Hoa, trị vì từ ngày 28 tháng 1 năm 1115 cho đến ngày 19 tháng 9 năm 1123. Tên thật của ông là Hoàn Nhan A Cốt Đả (chữ Hán: 完顏阿骨打, bính âm: Wanyan Aguda), có tên Hán là Hoàn Nhan Mân (完顏旻). Ông là người sáng lập và là vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Kim trong lịch sử Trung Quốc.
Tiểu sử
Hoàn Nhan A Cốt Đả xuất thân trong một gia đình quý tộc của tộc Nữ Chân, cháu của Hoàn Nhan Ô Cốt Nãi (完顏烏骨迺), tù trưởng bộ lạc Hoàn Nhan của người Nữ Chân vùng Hổ Thủy, con trai thứ hai của Hoàn Nhan Hặc Lý Bát (完顏劾里鉢), em trai của Hoàn Nhan Ô Nhã Thúc (完顏烏雅束). Do ảnh hưởng của những cuộc chiến tranh bộ lạc liên miên nên ngay từ nhỏ đã hình thành trong ông tinh thần thượng võ, hơn nữa ông còn nổi tiếng là một xạ thủ cừ khôi. Thời thanh niên, A Cốt Đả bắt đầu theo cha và các anh em đi chinh chiến khắp nơi, ông chiến đấu anh dũng, quả cảm, dốc lòng cho sự nghiệp thống nhất các bộ lạc Nữ Chân. Năm Càn Thống thứ chín (1109), lúc cao điểm của nạn đói hoành hành khắp nơi, A Cốt Đả đã giúp huynh trưởng là Ô Nhã Thúc thuần phục các chiến binh bị nạn đói của các bộ lạc khác để gia tăng thực lực cho bộ lạc mình. Năm Thiên Khánh thứ hai (1112), khi Thiên Tộ Đế tuần du đến Xuân Châu tụ hội cùng với tù trưởng các tộc Nữ Chân đã cư xử bất kính với A Cốt Đả và các tù trưởng khác, khiến họ vô cùng bất mãn, trong lòng nảy sinh ý định phản kháng triều Liêu.
Tháng 9 năm 1112, Hoàn Nhan A Cốt Đả không còn phụng chiếu, đồng thời bắt đầu dụng binh với các bộ lạc Nữ Chân không phục tùng.
Tháng 10 năm Thiên Khánh thứ ba (1113), huynh trưởng Ô Nhã Thúc bệnh chết, A Cốt Đả chính thức kế vị lãnh tụ liên minh các bộ lạc Nữ Chân với tên gọi Đô bột cực liệt. Ông cho xây dựng thành lũy, chuẩn bị vũ khí, huấn luyện binh mã, chờ đợi thời cơ tiến đánh nước Liêu.
Năm Thiên Khánh thứ tư (1114), A Cốt Đả nhận thấy thời cơ đã đến, trước tiên ông dẫn quân tiêu diệt và sáp nhập vương quốc Ô Nha (hậu duệ của vương quốc Bột Hải) tại thành Ô Xá (nay là Ninh An, Hắc Long Giang, Trung Quốc) vào tộc Nữ Chân của mình.
Những người tị nạn Bột Hải vẫn giữ được văn hóa và bản sắc của họ ngay cả dưới sự cai trị khắc nghiệt của nhà Liêu. Kể từ khi thủ lĩnh bộ tộc Nữ Chân (những người là hậu duệ của người Mạt Hạt từng nắm 1 phần quyền lực của Bột Hải, họ đồng thời là tiền thân của nhà Kim và nhà Thanh) là Hoàn Nhan A Cốt Đả lãnh đạo một cuộc nổi dậy chống lại nhà Liêu vào năm 1114, những người tị nạn Bột Hải với con số khổng lồ đã tham gia chiến tranh để tránh bị đánh thuế khắc nghiệt và xóa sổ văn hóa, giúp đỡ người Nữ Chân chống Liêu một cách tích cực. Người Nữ Chân tuyên bố nguồn gốc chung của người Bột Hải và Nữ Chân là từ bảy bộ lạc vật cát (勿吉), và tuyên bố: "Nữ Chân và Bột Hải là cùng một gia đình".
Sau đó Hoàn Nhan A Cốt Đả thống lĩnh toàn quân 2500 người trong tộc kéo đến đánh phá châu Ninh Giang của Liêu. Tướng Liêu là Tiêu Tự Tiên tức tốc dẫn 7000 tinh binh tập kết tại Xuất Hà Điếm nhằm ngăn chặn quân Nữ Chân, A Cốt Đả nhân lúc trời tối đã dẫn 3700 quân lén vượt sông Hỗn Đồng tập kích bất ngờ quân doanh của Liêu, khiến quân Liêu hoảng hốt tháo chạy tán loạn. Quân Nữ Chân thừa thắng truy kích, binh lực phát triển tới một vạn người, lãnh thổ được mở rộng đáng kể.
Liêu Thiên Tộ Đế ban đầu không xem Hoàn Nhan A Cốt Đả là một mối đe dọa nghiêm trọng, song các đội quân mà ông ta phái đi trấn áp Hoàn Nhan A Cốt Đả đều chiến bại.
Những hậu duệ của người Bột Hải đã lợi dụng cuộc chiến tranh giữa người Nữ Chân và nhà Liêu đang diễn ra ác liệt thì cũng nổi dậy chống lại nhà Liêu trong năm 1114. Họ đã đánh bại quân Liêu hai lần trước khi bị quân Liêu của vua Liêu Thiên Tộ Đế tiêu diệt.
Đầu năm 1115, để giải quyết uy hiếp từ tộc Nữ Chân, Liêu Thiên Tộ Đế hạ lệnh thân chinh, tuy nhiên quân Liêu bị quân Nữ Chân của Hoàn Nhan A Cốt Đả đánh bại ở khắp nơi.
Đầu tháng Giêng âm lịch năm Thiên Khánh thứ năm (28 tháng 1 năm 1115) Hoàn Nhan A Cốt Đả chính thức lên ngôi hoàng đế ở Hội Ninh, định quốc hiệu là "Đại Kim", đặt niên hiệu Thu Quốc, đổi tên Hoàn Nhan Mân. Tháng 9 cùng năm, ông đem quân tiến đánh trọng trấn của triều Liêu ở vùng đông bắc là Hoàng Long phủ. Liêu Thiên Tộ Đế phái hơn hai mươi vạn kỵ binh và bộ binh đến phòng thủ đông bắc, bị quân Kim đánh cho đại bại, mất sạch cả vũ khí và đồ quân dụng. Sau đại thắng, A Cốt Đả mới mở hội nghị quân sự, đề xuất lấy Ngũ Kinh của Liêu làm mục tiêu, phân binh làm hai lộ triển khai chiến tranh Kim diệt Liêu. Đến lúc này, Liêu Thiên Tộ Đế mới xem trọng sự việc, đồng thời hạ lệnh thân chinh, song quân Liêu bị quân Kim đánh bại, còn nội bộ triều Liêu lại xảy ra việc Gia Luật Chương Nô và Cao Vĩnh Xương làm phản.
Gia Luật Chương Nô đã nổi loạn tại Thượng Kinh của Liêu, mặc dù nhanh chóng bị bình định, song gây ra chia rẽ trong nội bộ Liêu.
Đến năm Thiên Phụ thứ tư (1120) quân Tây lộ đánh chiếm Thượng Kinh Lâm Hoàng phủ, tướng Liêu trấn thủ là Tiêu Thát Bất Dã đầu hàng, quốc lực dần suy yếu. Đến năm 1121, nhà Liêu đã để mất một nửa lãnh thổ vào tay nhà Kim. Do vấn đề kế thừa hoàng vị, nội bộ Liêu lại phát sinh nội loạn, cuối cùng kết thúc với việc Liêu Thiên Tộ Đế giết con cả của mình là Gia Luật Ngao Lỗ Oát, song chỉ khiến cho thêm nhiều binh sĩ nhà Liêu đầu hàng nhà Kim.
Tháng 1 năm Thiên Phụ thứ sáu (1122), quân Đông lộ đánh hạ Trung Kinh Đại Định phủ, Thiên Tộ Đế chạy đến sa mạc Gobi. Đồng thời, quân Tây lộ cũng đánh hạ Tây Kinh Đại Đồng phủ, Gia Luật Đại Thạch và Lý Xử Ôn không biết tung tích của Liêu Thiên Tộ Đế nên họ lập Gia Luật Thuần làm vua ở Nam Kinh Tích Tân phủ, sử gọi là Liêu Tuyên Tông, lập ra chính quyền Bắc Liêu.
Bắc Tống phái Đồng Quán cùng những người khác nhiều lần đem quân bắc phạt Liêu, song đều bị quân Liêu đánh tan. Vua Liêu Tuyên Tông giáng Liêu Thiên Tộ Đế làm Tương Âm vương, đồng thời sai đại sứ dâng biểu cho nhà Kim xin làm phụ dung. Tuy nhiên sự chưa thành thì ông ta đã bệnh mất, vợ là Liêu Đức phi xưng chế. Đến lúc này, cha con Lý Xử Ôn nhận thấy tương lai không sáng sủa, họ trù tính tư thông với Đồng Quán của Bắc Tống, muốn đoạt lấy lãnh thổ đang do Liêu Đức phi nắm giữ rồi dâng cho Tống; hướng bắc tư thông với người Kim, tự nhận làm nội ứng; về sau bị phát hiện và ban chết. Tháng 11 năm đó, Liêu Đức phi năm lần dâng biểu cho nhà Kim, nói rằng chỉ cần cho phép lập Gia Luật Định làm Liêu đế thì điều kiện gì cũng đáp ứng. Người Kim không đồng ý, Liêu Đức phi chỉ còn cách phái binh tử thủ Cư Dung quan, song Cư Dung quan thất thủ vào tháng 11.
Bắc Tống cuối cùng phải thỉnh quân Kim đánh hạ Nam Kinh của Liêu, Bắc Liêu mất, đến lúc này Ngũ Kinh của Liêu đều bị Kim đánh hạ. Liêu Đức phi cùng các quan viên người Liêu đến nương nhờ ở chỗ Liêu Thiên Tộ Đế, song bà ta đã bị Liêu Thiên Tộ Đế giết chết. Tống và Kim trải qua hiệp thương, kết quả là quân Kim sẽ trao cho Tống một bộ phận thành thị của Yên Vân thập lục châu, đồng thời thu được tuế tệ, song cuối cùng Bắc Tống chỉ thu được các tòa thành trống không sau khi chúng bị quân Kim cướp phá tan tành.
Tháng 1 năm 1123, người Khố Mạc Hề (Kumo Xi) là Hồi Ly Bảo (Tiêu Cán) tự lập làm vua, lấy hiệu là Hề Quốc hoàng đế, đến tháng 8 cùng năm thì bị quân Liêu bình định.
Tháng 8 năm Thiên Phụ thứ bảy (1123), Hoàn Nhan A Cốt Đả qua đời khi đang trên đường trở về Kim Thượng Kinh, tại vị được 9 năm, hưởng thọ 56 tuổi. Hoàng đệ là Hoàn Nhan Ngô Khất Mãi kế vị, tức Kim Thái Tông. Sau khi ông mất, vào tháng 6 năm Thiên Hội thứ ba (1125), triều đình đặt thụy hiệu là Đại Thánh hoàng đế (大圣皇帝), tháng 12 cùng năm đổi là Đại Thánh Vũ Nguyên hoàng đế (大圣武元皇帝), miếu hiệu Thái Tổ. Tháng 10 năm Hoàng Thống thứ năm (1145), gia thụy là Ứng Càn Hưng Vận Chiêu Đức Định Công Nhân Minh Trang Hiếu Đại Thánh Vũ Nguyên hoàng đế (应乾兴运昭德定功仁明庄孝大圣武元皇帝). Thi hài của A Cốt Đả được chôn tại Duệ Lăng ở Đại Phòng Sơn bên ngoài Trung Đô ngày nay thuộc thủ đô Bắc Kinh của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Ngày 5 tháng 9 năm 2003, Cục Di sản Văn hóa Chính phủ Nhân dân Bắc Kinh đã phát biểu: vào năm 1980 tại khu lăng mộ nhà Kim trong núi Long Sơn ở vùng ngoại thành phía tây nam Bắc Kinh, chứng thực rằng đây chính là quan tài bằng đá chứa hài cốt và đồ trang sức của Hoàn Nhan A Cốt Đả.
Đối ngoại
thumb|Tượng Hoàn Nhan A Cốt Đả tại quảng trường [[Bảo tàng Lịch sử Kim Thượng Kinh.]] Ngoài tài lãnh đạo quân sự phi phàm, A Cốt Đả còn là người có con mắt nhìn xa trông rộng trong lĩnh vực chính trị. Song song với chiến tranh chống Liêu, ông đã duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng nhằm ổn định thế cục trong nước và cũng là để tránh sự quấy rối từ bên ngoài, từ đó tập trung sức mạnh đánh Liêu. A Cốt Đả đã thực thi một loạt chính sách chính trị với trọng tâm "lấy dân làm gốc", do đó đã thu được hiệu quả rõ rệt.
Đối với các bộ tộc bị áp bức bóc lột và dân lành Khiết Đan, A Cốt Đả đã chọn chính sách "vỗ về", hơn nữa khích lệ họ yên tâm sản xuất, còn đối với tầng lớp quý tộc Khiết Đan, ông quán triệt chính sách "kháng cự sẽ tiêu diệt, quy phục hưởng khoan hồng". Những người không chống đối, A Cốt Đả đều miễn tội, cho họ giữ nguyên chức vụ cũ. Với những người Hán theo Liêu thì ông lại chọn chính sách thu nạp nhân tài, chọn ra những địa chủ tài giỏi và phần tử tri thức người Hán để tham gia công cuộc xây dựng chính quyền nước Kim. Đối với các nước láng giềng, A Cốt Đả đã thiết lập quan hệ tốt đẹp với Cao Ly, Tây Hạ, Bắc Tống. Những chính sách được áp dụng ngay từ sau khi lập quốc đã giúp nước Kim củng cố chính quyền và chờ thời cơ tiêu diệt triều Liêu. Nhà Tống theo như minh ước chỉ đòi lại vùng Yên Kinh với Tây Kinh Trong số đó có Cảnh Châu tuy nằm bên trong Trường Thành nhưng không thuộc mười sáu châu Yên Vân mà Thạch Kính Đường đã cắt nhường cho Liêu. Dịch Châu vào năm Thống Hòa thứ bảy nhà Liêu (989) đoạt từ bên Tống, cũng không được tính là một trong mười sáu châu. Hai châu Mạc, Doanh thì sớm được thu hồi và là trị sở phủ Hà Gian của Bắc Tống. Như vậy là bảy châu nằm trong Thái Hành Sơn thuộc tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây gồm Yên, Trác, Đàn, Thuận, Kế, Mạc, Doanh đều được trả lại cho Tống triều. Chỉ trừ chín châu ngoài Thái Hành Sơn là Nho, Quy, Vũ, Tân, Úy, Ứng, Hoàn, Sóc, Vân còn đang bị hai nước Liêu Kim tranh đoạt nên Kim Thái Tổ không thể trao trả được.
Đối nội
Sau khi xưng đế, Hoàn Nhan A Cốt Đả bắt đầu xây dựng chính quyền quý tộc chủ nô triều Kim. Ông tích cực cải cách tệ nạn xấu trong xã hội, đồng thời phát triển kinh tế dựa trên nền tảng "nông nghiệp là gốc", khiến quyền lực ngày một củng cố. Để thiết lập quan hệ chiếm hữu nô lệ mới, trước tiên A Cốt Đả đã xác lập hoàng quyền, xây dựng nên cơ cấu quyền lực tối cao trong giai cấp thống trị trung ương, gọi là chế độ Bột cực liệt; thay đổi quân sự từ thời kỳ thị tộc nguyên thủy thành tổ chức hành chính địa phương, tăng cường mạnh mẽ tính năng động và tổ chức kỷ luật trong quân đội. Kế đến A Cốt Đả chú trọng tới luật pháp, ban hành pháp chế mới, quy định kẻ phạm tội không phân biệt sang hèn đều sẽ bị xử phạt như nhau; thực thi phạt tội và chuộc tội song song; từ bỏ tập tục nguyên thủy, nghiêm cấm kết hôn cùng họ.. ** Triệu vương Hoàn Nhan Tông Kiệt (完顏宗傑), tên Nữ Chân là Một Lý Dã.
- Quang Ý hoàng hậu Bùi Mãn thị (光懿皇后裴滿氏). ** Con trai lớn, nhưng không là dòng đích nên không coi là con trưởng: Liêu vương Hoàn Nhan Tông Cán (完顏宗幹), tên Nữ Chân là Oát Bản. Thời Kim Hải Lăng Vương (con trai thứ hai của ông này) trị vì được truy tôn làm Kim Đức Tông, đến thời Kim Thế Tông bị giáng làm Liêu vương.
- Khâm Hiến hoàng hậu Hột Thạch Liệt thị (欽憲皇后紇石烈氏). Con trai thứ 2: Tống vương Hoàn Nhan Tông Vọng (完顏宗望), tên Nữ Chân là Oát Li Bất. Con trai thứ 6: Trần vương Hoàn Nhan Tông Tuyển (完顏宗雋), tên Nữ Chân là Ngoa Lỗ Quan. ** Thẩm vương Hoàn Nhan Ngoa Lỗ (完顏訛魯).
- Tuyên Hiến hoàng hậu Phó Tán thị (宣獻皇后僕散氏). Con trai thứ 3: Kim Duệ Tông Hoàn Nhan Tông Nghiêu (完顏宗堯), tên Nữ Chân là Ngoa Lý Đóa. Con trai ông này là Kim Thế Tông. Bân vương Hoàn Nhan Ngoa Lỗ Đóa (完顏訛魯朵).
- Ô Cổ Luận Nguyên phi (烏古論元妃). Con trai thứ 4: Lương vương Hoàn Nhan Tông Bật (完顏宗弼), tên Nữ Chân là Ngột Truật. Con trai thứ 8: Vệ vương Hoàn Nhan Tông Cường (完顏宗強), tên Nữ Chân là A Lỗ. ** Con trai thứ 9: Thục vương Hoàn Nhan Tông Mẫn (完顏宗敏), tên Nữ Chân là A Lỗ Bổ.
- Tiêu Sùng phi (蕭崇妃). Kỷ vương Hoàn Nhan Tập Nê Liệt (完顏習泥烈). Tức vương Hoàn Nhan Ninh Cát (完顏寧吉). ** Cử vương Hoàn Nhan Yến Tôn (完顏燕孫).
- Nương tử Độc Nô Khả (娘子獨奴可). ** Nghiệp vương Hoàn Nhan Oát Hốt (完顏斡忽).
;Con gái Trưởng công chúa Hoàn Nhan Ngột Lỗ (完颜兀鲁), gả cho Đồ Đan Cung. Tất Quốc công chúa, gả cho Ô Cổ Luận Ngoa Luận. *Vợ của Bồ Sát Thạch Gia Nô (Bồ Sát Thạch Gia Nô là cháu của Bồ Sát Hộc Lỗ Đoản, cháu ngoại Hặc Lý Bát và A Cốt Đả).
Trong văn học
Hoàn Nhan A Cốt Đả là một nhân vật trong tác phẩm Thiên Long Bát Bộ của nhà văn Kim Dung, trong tiểu thuyết này, ông xuất hiện và gặp gỡ với Kiều Phong khi đang đánh hổ, sau đó ông dẫn Kiều Phong về bộ tộc của mình, cho ở nhờ để chữa trị bệnh tình cho A Tử, em gái A Châu (người yêu của Kiều Phong). Ông còn là một nhân vật trong tiểu thuyết kiếm hiệp Tứ đại danh bổ của nhà văn Ôn Thụy An, trong tiểu thuyết này ông là vua nước Kim có dã tâm xâm lược Nam Tống.