✨Kim Môn

Kim Môn

Kim Môn () là một quần đảo nhỏ gồm một số hòn đảo trong đó có Đại Kim Môn, Tiểu Kim Môn, Ô Khâu và một số đảo nhỏ xung quanh, nằm dưới quyền kiểm soát của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Sau khi Chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc bị đánh bại trong Quốc Cộng Nội chiến và phải rút về Đài Loan, một số hòn đảo nguyên thuộc các huyện khác, như Ô Khâu được chính quyền Đài Loan chuyển giao cho huyện Kim Môn.

Quần đảo này nằm ngoài khơi bờ biển phía đông nam của Trung Quốc đại lục, chỉ cách thành phố Hạ Môn khoảng 2 km về phía đông. Vị trí chiến lược của nó phản ánh sự thay đổi đáng kể quan hệ xuyên eo biển, từ một mặt trận chiến tranh đến một địa điểm giao dịch giữa Trung Quốc và Đài Loan. Do các vấn đề đang diễn ra về tình trạng chính trị của Đài Loan, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa liên tục tuyên bố Kim Môn thuộc về địa cấp thị Tuyền Châu của tỉnh Phúc Kiến.

Tên gọi

Tên gọi Kim Môn (金門; nghĩa đen là "cổng vàng") xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1387 khi Hồng Vũ Đế của triều Minh bổ nhiệm một quan võ đến quản lý hòn đảo và bảo vệ nó trước các cuộc tấn công của giặc Uy khấu. Tên gọi này được đọc là Jīnmén trong bính âm Quan thoại chính thức và Kim-mûi trong phương ngữ Chương Châu bản địa của tiếng Phúc Kiến.

Quemoy cũng là tên gọi của quần đảo trong các ngôn ngữ phương Tây. Nó có lẽ bắt nguồn từ một dịch âm tiếng Bồ Đào Nha của cách phát âm tên gọi Kim Môn trong phương ngữ Chương Châu, Kim-mûi.

Kinmen là một từ gần đây hơn, dựa trên phương pháp bính âm bưu chính của Trung Hoa Dân Quốc, trong đó "k" được sử dụng thay cho ch hoặc j ở các âm đầu trong Chin-men (Wade–Giles) hay Jīnmén (bính âm). Với một số ngoại lệ, hình thái này được sử dụng trong tiếng Anh ở hầu hết các ngữ cảnh tại Kim Môn và trên toàn bộ Đài Loan. Các thể chế như chính quyền huyện, sân bay của quần đảo, và vườn quốc gia sử dụng hình thái phiên âm này.

Jinmen là từ dựa trên phương pháp bính âm Hán ngữ, nó đặc biệt được sử dụng trong các nguồn từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Chính quyền huyện Kim Môn và chính phủ Trung ương Trung Hoa Dân Quốc đã chấp nhận bính âm Hán ngữ là phương pháp phiên âm latinh tiêu chuẩn của họ, và sử dụng để viết tên gọi các hương trong huyện Kim Môn, song lại không áp dụng cho bản thân tên gọi của huyện.

Lịch sử

Từ thời Thanh trở về trước

Việc di dân người Hán khai phá Kim Môn đã bắt đầu từ thời nhà Tấn theo tham khảo trong sử liệu. Căn cứ theo "Kim Môn chí" thời Thanh, vào thời Tấn có 6 gia tộc: Tô, Trần, Ngô, Thái, Lã, Nhan do muốn tránh chiến họa nên đã di cư đến Kim Môn. Năm Trinh Nguyên thứ 19 (803), triều đình nhà Đường đã thiết lập 5 mục mã trường tại Tuyền Châu, Ngô Châu là một trong số đó, Trần Uyên (陳淵) nhậm chức mục mã giám, đó là cơ cấu hành chính đầu tiên thiết lập trên đảo Kim Môn. Mười hai họ: Thái, Hứa, Ông, Lý, Trương, Hoàng, Vương, Lã, Lưu, Hồng, Lâm, Tiêu theo Trần Uyên đến đảo khai khẩn, Trần Uyên vì thế mà được tôn là "khai Ngô ân chủ" (開浯恩主). nhỏ|trái|[[Đảo Kiến Công (建功嶼), với tượng Trịnh Thành Công, tại khu vực cảng Kim Môn.]] Kim Môn (xưa gọi là Ngô Châu) dựa vào sản xuất muối, trải qua thời Ngũ Đại Thập Quốc và các triều đại Nguyên, Minh và Thanh, người dân đã tạo nên rất nhiều ruộng muối quanh vịnh Kim Sa ở bán đảo Kim Môn Đông. Năm Hồng Vũ thứ 28 (1387), Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đã lệnh cho Giang Hạ hầu Chu Đức Hưng (周德興) đi kinh lược vùng duyên hải Phúc Kiến, tổng cộng thiết lập 5 vệ và 12 sở. Kim Môn thủ ngự thiên hộ sở là một trong 12 sở, quân Minh gọi Kim Môn là "Trung tả sở", thuộc quyền cai quản của bốn tuần kiểm tư là Phong Thượng, Quan Áo, Điền Phổ, Trần Khanh, sau tăng thêm Liệt Tự tuần kiểm tư. Do Kim Môn che chắn cho vùng cửa biển đông nam Phúc Kiến, tên gọi Kim Môn bắt nguồn từ ý "cố nhược kim thang, hùng trấn hải môn".

Thời kỳ Nam Minh, Kim Môn trên thực tế do chính quyền Trịnh Thành Công khống chế. Lỗ vương Chu Dĩ Hải (朱以海) nguyên là giám quốc của Nam Minh, sau khi trốn thoát khỏi quân Thanh đã vượt biển sang nương nhờ Trịnh Thành Công, tới Kim Môn vào năm 1651. Quân Thanh công chiếm Kim Môn vào năm 1663, sau đó triều Thanh đã cho thi hành thiên giới lệnh (遷界令), cưỡng chế cư dân di dời đến những vùng đất cách bờ biến ngoài 30 lý, trên đảo vì thế không còn một bóng người. Từ năm 1674 đến 1679, họ Trịnh tái chiếm Kim Môn, lấy quần đảo làm căn cứ cho việc tiến hành các hoạt động quân sự tại nội lục. Năm 1680, quân Thanh lần thứ hai công chiếm Kim Môn. Năm 1683, sau khi quân Thanh công chiếm Đài Loan, đã thực thi phục giới, những cư dân từng phải dời đi do thiên giới và hậu duệ của họ dần dần trở lại nguyên tịch.

Thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc

nhỏ|Bút tích của Tưởng Giới Thạch khắc trên vách đá ở Kim Môn. Thành ngữ Vô vong tại [[Cử (nước)|Cử (毋忘在莒).]] Năm 1914, huyện Tư Minh (nay là Hạ Môn) được phân ra từ huyện Đồng An, Kim Môn phân thuộc thuộc quyền cai quản của huyện Tư Minh. Sang năm 1915, chính phủ Quốc dân thành lập huyện Kim Môn độc lập, quản lý các đảo Đại Kim Môn, Tiểu Kim Môn, Đại Đặng, Tiểu Đặng cùng các đảo xung quanh. Năm 1933, sau khi xảy ra Mân biến, Kim Môn do Trung Hoa Cộng hòa quốc chiếm giữ trong thời gian chính quyền này tồn tại, thuộc tỉnh Hưng Tuyền. Trong chiến tranh Trung-Nhật, vào năm 1937, quân Nhật chiếm lĩnh Kim Môn, chính phủ huyện Kim Môn của Trung Hoa Dân Quốc tạm thời dời đến hương Đại Đặng. Sau khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ hai, Trung Hoa Dân Quốc thu hồi Kim Môn, thiết lập 2 trấn và 4 hương, sang năm 1946 thì sắp xấp lại thành 2 trấn và 2 hương.

Sau Nội chiến Trung Quốc lần hai, năm 1949, chính quyền Trung Hoa Dân Quốc thiết lập bốn khu công sở là Kim Thành, Sa Mỹ, Liệt Tự, Đại Đặng tại Kim Môn. Đến tháng 10, Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc tiếp quản toàn diện Kim Môn. Từ ngày 25-27 tháng 10 năm 1949, tại Đại Kim Môn đã diễn ra chiến dịch Cổ Ninh Đầu, Giái phóng quân đã thất bại với thiệt hại theo ước tính của Trung Hoa Dân Quốc là 4.000 lính chết và 7.000 lính bị bắt. nhỏ|phải|Quả [[đạn pháo lớn nhất của Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc trong cuộc pháo chiến Kim Môn năm 1958]] Đến tháng 11 năm 1949, sau khi kết thúc chiến tranh, Trung Hoa Dân Quốc triệt tiêu huyện Kim Môn, phân quần đảo thành ba khu là Kim Đông, Kim Tây và Liệt Tự, mỗi khu thiết lập một dân chính xứ để quản lý hành chính địa phương, được chia tiếp thành 9 khu công sở: Thành Sương, Kim Thành, Kim Bàn, Thương Hồ, Bích Hồ, Kim Sa, Liệt Tự, Cổ Ninh, Quỳnh Phổ. Tháng 3 năm 1950, ba dân chính xứ hợp thành "Kim Môn quân quản khu hành chính công thự". Tháng 7 năm 1951, Kim Môn được phân lại thành 5 khu: Kim Thành, Kim Ninh, Kim Hồ, Kim Sa, Liệt Tự. Đến tháng 12 năm 1951, Kim Môn có thêm hương Kim Sơn, tổng cộng có 6 khu. Tháng 2 năm 1953, Kim Môn kết thúc chế độ quân quản, chính quyền huyện Kim Môn được khôi phục, các khu được đổi thành hương và trấn, Kim Môn có 3 hương và 3 trấn.

Tháng 6 năm 1954, địa khu Ô Khâu của huyện Phủ Điền được chuyển thành một hương, được chỉ định do huyện Kim Môn tạm thời quản lý. Lúc này, huyện Kim Môn tổng cộng có: trấn Kim Thành, trấn Kim Sa, hương Kim Ninh, hương Kim Hồ, hương Kim Sơn, hương Liệt Tự, hương Ô Khâu. Năm 1959, thành lập thêm hương Kim Quỳnh, đồng thời đổi Kim Hồ thành trấn. Tháng 9 năm 1965, triệt tiêu hương Kim Sơn và hương Kim Quỳnh.

Từ ngày 23 tháng 8 đến 5 tháng 10 năm 1958, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tuyên bố "đoàn kết với cuộc đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Trung Đông", phát động pháo kích Kim Môn, hay "Khủng hoảng eo biển Đài Loan lần hai", tổng cộng phía Giải phóng quân đã bắn hơn 47 vạn đạn pháo vào quần đảo Kim Môn, ngoài pháo kích ra, hai bên tổng cộng phát sinh hơn 20 lần hải chiến. Bản sắc Trung Quốc mạnh mẽ đã được tôi luyện trong thời kỳ Trung Hoa Dân Quốc đối đầu quân sự với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, khi Kim Môn nằm dưới quyền quân quản.

Kinh tế

Kinh tế Kim Môn chủ yếu dựa vào du lịch và dịch vụ do vị trí nằm gần Trung Quốc đại lục. Do có tầm quan trọng về quân sự, phát triển ở quần đảo từng rất bị hạn chế. Do vậy, hiện nay nó đã trở thành một địa điểm du lịch cuối tuần quen thuộc đối với người Đài Loan và được biết đến với các thôn làng yên bình, kiến trúc kiểu cổ, và các bãi biển. Một phần lớn Kim Môn tạo thành vườn quốc gia Kim Môn với các công sự và cấu trúc quân sự, các đạn pháo xưa và cảnh quan thiên nhiên.

Giao thông

Một câu cầu dài kết nối giữa Đại Kim Môn và Liệt Tự đã được lên kế hoạch sẽ hoàn thành vào năm 2020, với chi phí ước tính 7,5 tỉ Đài tệ (250 triệu USD). Sân bay Kim Môn nằm trên Đại Kim Môn.

Giáo dục

Vào tháng 8 năm 2010, Đại học Quốc lập Kim Môn (國立金門大學) đã được thành lập trên cơ sở Học viện Kỹ thuật Quốc lập Kim Môn. Quần đảo cũng có các khu trường sở vệ tinh của Đại học Minh Truyền và Đại học Quốc lập Cao Hùng.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Kim Môn** () là một quần đảo nhỏ gồm một số hòn đảo trong đó có Đại Kim Môn, Tiểu Kim Môn, Ô Khâu và một số đảo nhỏ xung quanh, nằm dưới quyền kiểm
**Chiến dịch Kim Môn** (Cộng hòa nhân dân Trung hoa gọi là** Kim Môn đăng lục chiến**, tài liệu Trung Hoa Dân Quốc gọi là **chiến dịch Cổ Ninh Đầu**, **Cổ Ninh Đầu đại tiệp**,
nhỏ|Vị trí tại Kim Môn **Kim Hồ** () là một trấn của huyện đảo Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Trấn có cảng trên vịnh Liêu La, sân bay Kim
nhỏ|Vị trí tại Kim Môn **Kim Sa** () là một trấn của huyện đảo Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Trấn nằm tại khu vực đông bắc của đảo chính
**Kim Thành trấn** (,Jīnchéng Chen) là một thị trấn ở góc tây nam đảo Kim Môn. Đây là huyện lỵ của huyện Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc. Thị trấn là thủ
**Sân bay Kim Môn** () là một sân bay dân dụng ở Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Đài Loan (Trung Hoa Dân quốc). Sân bay này được xây năm 1994 làm sân bay dân dụng
**Đại Khâu** () là một đảo trên eo biển Đài Loan, hiện là một khu hành chính của hương Ô Khâu của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), do huyện Kim Môn đại diện quản
**Kim Môn** là một huyện cũ thuộc tỉnh Hải Hưng, sau thuộc tỉnh Hải Dương. Huyện được thành lập từ ngày 24 tháng 2 năm 1979 trên cơ sở hợp nhất huyện Kim Thành và
**Vườn quốc gia Kim Môn** () là một vườn quốc gia nằm trên hai hòn đảo Đại Kim Môn và Tiểu Kim Môn, thuộc đơn vị hành chính huyện Kim Môn, Đài Loan. Được thành
**Tiếng Kim Môn** (金门 方言) _còn gọi là tiếng **Kềm Mùn** tùy theo cách gọi từng khu vực_ là một phương ngữ Tiếng Dao, thuộc ngữ hệ H'mong Miền được sử dụng bởi 200.000 người
nhỏ|Vị trí tại Kim Môn **Kim Ninh** () là một hương của huyện đảo Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Năm 1949, trên địa bàn hương từng diễn ra chiến
Dầu xoa bóp Kim Môn Nhất Điều Căn rất cầ thiết cho những người lớn tuổi thường xuyên nhức mỏi.
**Cá lìm kìm** hay còn gọi là **cá kìm** hay **Họ Cá lìm kìm** (Danh pháp khoa học: _Hemiramphidae_) là một họ cá trong Bộ Cá nhói). Tên gọi tiếng Anh là: Halfbeak, (do từ
**Sân bay quốc tế Tường An Hạ Môn** là sân bay đang xây dựng, phục vụ cho thành phố Hạ Môn của tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Sân bay sẽ thay thế sân bay quốc
**_Kim Bình Mai từ thoại_** (金瓶梅詞話), thường được biết đến tới tên gọi **_Kim Bình Mai_** (金瓶梅), là một bộ tiểu thuyết chương hồi được Lan Lăng Tiếu Tiếu Sinh sáng tác vào thời nhà
thumb|right|Gỉ sắt - ví dụ quen thuộc nhất của sự ăn mòn. thumb|right|Ăn mòn kim loại. **Ăn mòn** là sự phá hủy dần dần các vật liệu (thường là kim loại) thông qua phản ứng
**Ăn mòn chọn lọc** (tiếng Anh: _selective corrosion_, _selective leaching_, _dealloying_, _demetalification_, _parting_), là sự ăn mòn xảy ra đối với hợp kim ở dạng dung dịch rắn đồng thể. Ăn mòn chọn lọc xảy
**Kinh Môn** là một thị xã cũ nằm ở phía đông bắc tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thị xã Kinh Môn thuộc vùng bán sơn địa, một dãy núi đất trong cánh cung Đông Triều
**Kim chi** (Hangul: 김치) là một món ăn chính trong ẩm thực tại bán đảo Triều Tiên, là một món ăn truyền thống gồm các loại rau muối và lên men, chẳng hạn như cải
**Babit** (tiếng Anh: _babbitt_) là tên của những hợp kim chống mài mòn trên nền các kim loại có độ nóng chảy thấp như chì hoặc thiếc. Babit thường được ứng dụng làm các ổ
**_Kim Bình Mai_** (金瓶梅, _Jīnpíngméi_), tên đầy đủ là **_Kim Bình Mai từ thoại_** (_Truyện kể có xen thi từ về Kim Bình Mai_); là bộ tiểu thuyết dài gồm 100 hồi và là một
thumb|Một đinh sắt quấn trong dây đồng cho thấy sự ăn mòn điện hóa của sắt; [[chất chỉ thị ferroxyl hiển thị các chỉ thị hóa học có màu của hai loại ion sắt Fe3+
Nhiều môn phái, bang hội trong các tác phẩm của nhà văn Kim Dung được nhắc lại nhiều lần. Có những phái có thật ngoài đời mặc dù các chi tiết đã được Kim Dung
**Kim cương** là một trong hai những dạng thù hình quý được biết đến nhiều nhất của carbon (dạng còn lại là than chì), có độ cứng rất cao và khả năng khúc xạ cực
thumb|upright=1.2|Tinh thể [[osmi, một kim loại nặng có khối lượng riêng lớn gấp hai lần chì]] **Kim loại nặng** (tiếng Anh: _heavy metal_) thường được định nghĩa là kim loại có khối lượng riêng, khối
**Hương Ô Khâu** () là một khu vực hành chính của Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan), vốn thuộc về huyện Phủ Điền của tỉnh Phúc Kiến, song từ năm 1954 đã chuyển sang thuộc
**Hợp kim đồng** là vật liệu trên cơ sở đồng (nguyên tố) được hợp kim hóa với các nguyên tố hóa học khác, ví dụ như thiếc, chì, kẽm, bạc, vàng, antimon... Hợp kim đồng
**Tây Môn Khánh** (Minh Khánh) () là một nhân vật chính trong tiểu thuyết _Kim Bình Mai_ của Tiếu Tiếu Sinh, nhưng trước đó đã xuất hiện trong tiểu thuyết _Thủy hử_ của Thi Nại
**Bùi Kim Giai** (tiếng Trung giản thể: 裴金佳, bính âm Hán ngữ: _Péi Jīn Jiā_, sinh tháng 8 năm 1963, người Hán) là chính trị gia nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ông là
nhỏ|[[Sắt (_Fe_) là kim loại phổ biến của vỏ Trái Đất sau oxi và silic, nhôm. Sắt là thành phần cấu tạo của phân tử hemoglobin (Hb hay huyết sắc tố) trong hồng cầu.]] Trong
**Phan Kim Liên** () là nhân vật hư cấu trong tiểu thuyết _Thủy hử_ của nhà văn Thi Nại Am, là người đàn bà đa tình và hiểm độc, giết chồng để ngoại tình và
là một bộ manga do Arakawa Hiromu sáng tác kiêm minh họa. Thế giới trong _Cang giả kim thuật sư_ được xây dựng theo phong cách châu Âu thời cách mạng công nghiệp. Bộ truyện
**Lò phản ứng kim loại lỏng** là một kiểu lò phản ứng hạt nhân tiên tiến sử dụng kim loại hóa lỏng làm chất dẫn nhiệt và làm mát. Lò phản ứng kim loại lỏng
**đảo Kiến Công** () là một đảo thủy triều tại trấn Kim Thành, huyện Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Vào cuối thời nhà Thanh, hệ thống y tế Kim
**Nhà Kim** (, tiếng Nữ Chân: Tập tin:Amba-an Ancu-un.svg 1115-1234) là một triều đại do người Nữ Chân gây dựng trong lịch sử Trung Quốc. Người Nữ Chân nguyên là phiên thuộc của triều Liêu,
thumb|alt=Picture of a diamond.|Viên kim cương Hope năm 1974 **Viên kim cương Hope** là một trong những món đồ trang sức nổi tiếng nhất thế giới, với lý lịch quyền sở hữu có niên đại
Tập tin:Cour Napoléon seen from the pavillon de l'Horloge, Louvre 8 July 2016.jpg Kim tự tháp kính Louvre **Kim tự tháp kính Louvre** (tên tiếng Pháp: **_Pyramide du Louvre_**) là một kim tự tháp được
**Hột Thạch Liệt Hồ Thất Môn** (chữ Hán: 纥石烈胡失门, ? – 1223), họ **Hột Thạch Liệt** (紇石烈), thuộc tộc người Nữ Chân và là đại thần cuối thời nhà Kim. Hồ Thất Môn vốn xuất
**đảo Bắc Đính** (北碇島, bính âm: _Běidìng Dǎo_) là một đảo nhỏ thuộc trấn Kim Hồ, huyện Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Đảo này nằm ở phía đông của
**Hợp kim nhôm** là hợp kim của nhôm với các nguyên tố khác (như: đồng, thiếc, mangan, silic, magiê) ## Tính chất * Khối lượng riêng nhỏ (~2,7g/cm³) nên nhôm và hợp kim nhôm chỉ
**Kim Bình Mai** () là một bộ phim khiêu dâm cổ trang Hồng Kông sản xuất năm 2008 của đạo diễn Tiền Văn Kỹ và được sản xuất bởi Vương Tinh, với sự tham gia
Vị trí tại Kim Môn Bảng chữ tâm lý chiến "Tam Dân Chủ nghĩa thống nhất Trung Quốc" **Liệt Tự** (), còn được gọi là **Tiểu Kim Môn** () là một hương của huyện đảo
**đảo Tiểu Đặng** () nằm trong vịnh Hạ Môn tại tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Đảo có diện tích là 0,9671 km2, cao 28 m so với mực nước biển, có khoảng 3.000 người sống
nhỏ|400x400px| Hòn [[Phiến đá Rosetta|đá Rosetta ở Bảo tàng Anh ]] phải|nhỏ|300x300px| Tranh khắc đá ở [[Wadi Rum (Jordan)]] **Kim thạch học** hay **minh văn học** (tiếng Anh: _epigraphy_) là môn khoa học nghiên cứu
**Kim Dung** (10 tháng 3 năm 1924 – 30 tháng 10 năm 2018), tên khai sinh là **Tra Lương Dung**, là một trong những nhà văn có tầm ảnh hưởng nhất đến văn học Trung
**Luyện kim** là một lĩnh vực của khoa học và kỹ thuật vật liệu nghiên cứu hành vi vật lý và hóa học của các nguyên tố kim loại, các hợp chất liên kim loại
**Kim Jong-il** (lúc mới sinh có tên **Yuri Irsenovich Kim**; Chosŏn'gŭl: 김정일; Hancha: 金正日; Hán Việt: _Kim Chính Nhật_; 16 tháng 2 năm 1941 – 17 tháng 12 năm 2011) là lãnh tụ tối cao
**đảo Đông Đính** () rộng 0,0160 km2 Đảo Đông Đính cách bờ biển Đại lục 13 km, và cách 25 km về phía nam- tây nam của đảo Kim Môn. Đảo được mô tả là một tảng đá
thumb|đảo Phục Hưng **đảo Phục Hưng** (), tên cũ là **đảo Phúc Đỉnh** (覆鼎嶼), là một đảo nhỏ thuộc xã Liệt Tự, huyện Kim Môn, tỉnh Phúc Kiến, Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan). Đảo
nhỏ|Hoa đào nhỏ nhỏ|Cây hoa đào **Đào Hoa đảo** là một địa danh trong bộ ba tiểu thuyết võ hiệp _Xạ Điêu Tam Bộ Khúc_ của Kim Dung. Đảo Đào Hoa là một đảo nhỏ