✨Nai cà tông Xiêm

Nai cà tông Xiêm

Nai cà tông Xiêm (Danh pháp khoa học: Panolia eldi siamensis) là một phân loài của loài nai cà tông phân bố ở Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Ở Việt Nam, nó được tìm thấy ở một số nơi thuộc Tây Nguyên như Kon Tum (Sa Thầy), Đắk Lắk (Đắk Min; Easúp; M'Đrắc), Lâm Đồng (Bảo Lộc), chúng không sống trong những vùng đất ngập nước mà sinh sống ở những vùng rừng lá rụng. Hiện cũng có ý kiến cho rằng chúng cần được xem là một loài riêng biệt.

Chúng là thú quý hiếm. Cặp sừng đẹp dùng trang trí nội thất, xuất khẩu. Thịt, da, xương, sừng, nhung, có giá trị thực phẩm, dược liệu, hàng mỹ nghệ. phân bố hạn chế ở một số vùng rừng, số lượng rất ít và đang bị giảm dần do săn bắn và bẫy bắt, khai thác rừng, phá rừng làm nương rẫy đã và đang làm mất vùng sinh sống của chúng.

Đặc điểm

Nai cà tông Xiêm có hình dáng giống như nai, nhưng nhỏ hơn với trọng lượng từ 95–100 kg, chúng cao 1,15m có bộ lông vàng xám (nai cái) hay nâu đậm (nai đực) . Đầu và mặt chúng thuôn dài, tai to tròn. toàn thân có bộ lông mềm, lưng màu hung đỏ hoặc vàng hung có hai hàng chấm màu vàng nhạt chạy dọc lưng. Con đực lông ở cổ thưa, ở gáy dầy, dài rủ xuống hai bên cổ. Ngực, bụng, háng màu trắng. Phía trong chân sau có vệt trắng nhạt chạy dài xuống dưới. Đuôi rất ngắn. Con non có các đốm trắng như sao ở mông.

Loài nai này nổi bật vì có cặp sừng chẻ thành nhiều nhánh, con đực có cặp sừng 4 - năm nhánh, nhánh 1 hướng về phía trước tạo với thân sừng hình vòng cung ngay trên đỉnh đầu, các nhánh khác ở ngọn sừng xoè ra giống như bàn tay 3 - 4 ngón. Loài động vật này là một trong những loài có bộ sừng đẹp nhất trong tất cả các loài động vật thuộc bộ móng guốc

Sừng nai cà tông Xiêm khi uốn chẻ thành nhiều nhánh trông vừa uy dũng lại kiêu sa và rất quyến rũ với cặp sừng nhọn, hình vòng cung hướng về phía trước đỉnh đầu, các nhánh ở ngọn sừng xòe chĩa ra như những ngọn giáo mà loài này sử dụng trong những lúc giao chiến tranh giành con cái vào mùa giao phối, hoặc để tấn công các loài thú ăn thịt khi tính mạng bị nguy cấp. Cặp gạc cong giống như đàn lia, có những cặp gạc đẹp của nai cà tông ở Lang Bi-an dài lên đến 116 cm, với một số lượng rất thấp, coi như có thể đã tuyệt chủng tại Lào, Campuchia và Việt Nam. Số lượng nai cà tông không còn nhiều. Riêng tại Việt Nam, số lượng nai cà tông ước tính chỉ còn vài trăm con và con số này đang giảm dần do nạn săn bắn quá mức, nạn khai thác rừng làm môi trường sinh sống của loài này bị thu hẹp. Nai cà tông quý hiếm ở Đắk Lắk có nguy cơ tuyệt chủng, Hiện nay, người ta chỉ biết về nai cà tông qua những bộ sừng được trang trí trong một số ít gia đình khá giả ở Đắk Lắk. Trước đây, người dân Đắk Lắk vẫn gặp những cá thể nai cà tông trong các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn quốc gia. Tuy nhiên, do diện tích rừng bị thu hẹp quá nhanh, chất lượng rừng suy giảm và nạn săn bắn tàn sát động vật hoang dã nên trong khoảng 10 năm trở lại đây, không ai thấy loài động vật quý hiếm này nữa.

Săn bắn

Loài này đang bị săn dữ dội vì thú chơi thủ cấp nai cà tông, do cặp sừng đẹp đã thúc đẩy nhiều đại gia vung tiền mua thủ cấp nai cà tong để bày biện trong tư gia nhằm khẳng định đẳng cấp. Có quan niệm rằng đầu sừng của loài nai cà tông hội tụ nhiều yếu tố như hoang dã, sang trọng, có phần ma quái... Không chỉ thể hiện đẳng cấp mà nó còn mang lại nhiều may mắn, hanh thông cho gia chủ khi treo trong nhà. Để có được cái đầu nai cà tông thì phải chi hơn 50 triệu đồng. Giá thị trường mỗi cái thủ cấp nai cà tông dao động từ 20-50 triệu đồng, có khi hơn tùy lớn nhỏ và độ mỹ thuật, đầu sừng nai cà tông là hàng cấm nên chỉ cho khách xem qua hình ảnh, nếu muốn mua thì đặt tiền cọc.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nai cà tông Xiêm** (Danh pháp khoa học: **_Panolia eldi siamensis_**) là một phân loài của loài nai cà tông phân bố ở Trung Quốc, Campuchia, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Ở Việt Nam,
**Nai cà tông** (danh pháp: **_Rucervus eldii_**) là loài nai phân bố ở Đông Nam Á. Loài này được người phương tây phát hiện lần đầu ở Manipur thuộc Ấn Độ vào năm 1839. Tên
nhỏ|phải|Cá sấu được nuôi ở [[Cồn Phụng]] nhỏ|phải|Một trại nuôi cá sấu **Nuôi cá sấu** hay mô hình trang trại cá sấu là việc thực hành chăn nuôi để khai thác, sử dụng các nguyên
**Nuôi hươu nai** và việc chăn nuôi các loài hươu, nai như một loại gia súc để lấy các sản phẩm từ chúng như thịt nai, sừng hươu đặc biệt là nhung hươu, pín hươu,
nhỏ|phải|Một con [[nai đen tại Thảo cầm viên Sài Gòn, nai là loài thú phổ biến ở Việt Nam]] **Thú** là nhóm động vật có xương sống được biết rõ nhất ở Việt Nam, sau
**Siddhartha Gautama** (tiếng Phạn: सिद्धार्थ गौतम, Hán-Việt: Tất-đạt-đa Cồ-đàm) hay **Gautama Buddha**, còn được gọi là **Shakyamuni** (tiếng Phạn: शाक्यमुनि, Hán-Việt: Thích-ca Mâu-ni) là một nhà tu hành và nhà truyền giáo, người sáng lập
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
**Nai đen** (Danh pháp khoa học: _Cervus unicolor equinus_) là một phân loài của loài nai (_Rusa unicolor hay Cervus unicolor_) phân bố ở vùng Đông Dương đến bán đảo Mã Lai. Đây là loài
**Tống Viết Phước** (hay **Tống Viết Phúc**, chữ Hán: 宋曰福, ? - 1801) là nhà chính trị, quân sự Việt Nam thời chiến tranh Nguyễn-Tây Sơn. Ông là một những chỉ huy quân sự quan
**Đường Đại Tông** (chữ Hán: 唐代宗; 11 tháng 11, 726 - 10 tháng 6, 779), húy **Lý Dự** (李豫), là vị Hoàng đế thứ 9 hay thứ 11 của nhà Đường trong lịch sử Trung
**Hà Tiên** (chữ Hán: _河僊_) là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ Việt Nam, thành lập năm 1832. ## Lịch sử ### Vùng đất Hà Tiên xưa Xưa kia, đây là vùng
**Mạc Thiên Tứ** (chữ Hán: 鄚天賜, , sinh ngày 12 tháng 12, 1699 hoặc 16 tháng 12, 1705 hoặc 1 tháng 1, 1718, mất ngày 18 tháng 6, 1780), tự là **Sĩ Lân** (士麟, ),
**Nguyễn Phúc Chu** (chữ Hán: 阮福淍, 11 tháng 6 năm 1675 – 1 tháng 6 năm 1725) hay **Nguyễn Hiển Tông**, là vị chúa Nguyễn thứ sáu của Đàng Trong, vùng đất phía Nam nước
**Hà Tiên** là một thành phố cũ nằm ở phía tây bắc tỉnh Kiên Giang, Việt Nam. Thành phố Hà Tiên trước đây thuộc địa bàn huyện Hà Tiên thuộc tỉnh Rạch Giá và sau
phải|nhỏ|Văn miếu môn. **Văn miếu Trấn Biên** là "Văn miếu" đầu tiên được xây dựng (xây năm 1715) tại xứ Đàng Trong, để tôn vinh Khổng Tử, các danh nhân văn hóa nước Việt và
**Trần Thượng Xuyên** (chữ Hán: 陳上川, 1626-1720), tự là **Thắng Tài** (勝才), hiệu **Nghĩa Lược** (義略), quê ở ngôi làng Ngũ Giáp Điền Thủ, huyện Ngô Xuyên, phủ Cao Châu (Giao Châu), tỉnh Quảng Đông
**Nguyễn Công Nhàn** (chữ Hán: 阮公閒, ?-1867) là danh tướng nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. Ông là người tỉnh Phú Yên Năm 1861, quân Pháp tấn công Định Tường, Nguyễn Công Nhàn bị
**Hà Âm** (chữ Hán: 河陰) là một huyện cũ thuộc tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn Việt Nam. Ngày nay là phần đất thuộc các huyện phía Nam của tỉnh Takéo Campuchia, vùng đất phía
**_Đoạn trường tân thanh_** (chữ Hán: 斷腸新聲), thường được biết đến với cái tên đơn giản là **_Truyện Kiều_** (chữ Nôm: 傳翹), là một truyện thơ của đại thi hào Nguyễn Du. Đây được xem
Việt Nam là quốc gia thịnh hành **tục thờ cúng động vật** xuất phát từ tín ngưỡng sùng bái tự nhiên. Tín ngưỡng thờ linh thú trong các đình, đền, miếu là một trong những
: _Đối với cầu thủ cricket người Ireland cùng tên, xem John Crawfurd (cricketer)_ **John Crawfurd** FRS (13 tháng 8 năm 1783 - 11 tháng 5 năm 1868) là một bác sĩ người Scotland, nhà
George Gibson (?-1825) (sử nhà Nguyễn gọi là **Hợp Thần Thăng Thụ** hoặc **Hợp Thời Thăng Thụ**) Bản tường trình về sứ mệnh ở Việt Nam của Gibson có chứa nhiều thông tin đương thời
**Gia Long** (; 8 tháng 2 năm 1762 – 3 tháng 2 năm 1820), tên húy là **Nguyễn Phúc Ánh** (阮福暎), thường được gọi là **Nguyễn Ánh** (阮暎), là một nhà chính trị, nhà quân sự
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Phuket** (tiếng Thái: **ภูเก็ต**, phiên âm: Bu-két; tiếng Mã Lai: _Talang_ hay _Tanjung Salang_) là một trong những tỉnh miền Nam của Thái Lan. Nó bao gồm đảo Phuket, hòn đảo lớn nhất của đất
**Lãnh thổ Việt Nam qua từng thời kỳ** là sự biến đổi không gian sinh tồn của người Việt. Sự biến đổi này mang tính chất phức tạp, lúc bị mất lãnh thổ về các
Đông Nam Bộ (màu tím) và Tây Nam Bộ (màu hồng) **Nam Bộ** (hay còn gọi là **miền Nam**) là một trong 3 miền địa lý của Việt Nam (gồm Bắc Bộ, Trung Bộ và
**Taksin Đại đế** (, , ) hay **Quốc vương Thonburi** (, , tiếng Trung giản thể: 郑 昭; tiếng Trung phồn thể: 鄭 昭; bính âm: Zhèng Zhāo; tiếng Triều Châu: Dên Chao; tiếng Việt:
Giai đoạn từ năm 1431 đến năm 1863 trong lịch sử Campuchia được gọi là **thời kỳ Hậu Angkor** hoặc **thời kỳ Đen Tối, thời kỳ Trung Đại****.** Năm 1431, quân Ayutthaya của người Thái
Hồi ấy, tụi tui đóng quân gần Cơi Năm, nơi bác Ba Phi ở. Thỉnh thoảng, bác vô thăm tụi tui và cung cấp nhu yếu phẩm. Có lúc thì mấy cây thuốc gò, mấy
Thái Lan có rất nhiều loại âm nhạc, điển hình như nhạc cung đình, nhạc lễ hội, dàn nhạc nhỏ gia đình và nhạc ca kịch rối bóng Nẳngyài, nhạc múa mặt nạ Khổn..v...v.. Theo
nhỏ|Tỉnh lộ 943 đoạn đi qua Thị trấn [[Phú Hòa, Thoại Sơn, An Giang]] nhỏ|Hệ thống giao thông Việt Nam 2000 Các tuyến đường bộ, đường sắt, đường hàng không trong **mạng lưới giao thông
Tiến trình _Nam tiến_ của dân tộc Việt.|thế= **Nam tiến** (Chữ Nho: 南進) là quá trình mở rộng lãnh thổ của người Việt về phương nam trong lịch sử Việt Nam. _Nam tiến_ là một
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Lịch sử Chăm Pa** là lịch sử các quốc gia của người Chăm gồm: Hồ Tôn, Lâm Ấp, Hoàn Vương, Chiêm Thành (_Campanagara_) và Thuận Thành (_Nagar Cam_), thành lập từ năm 192 và kết
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Phan Đình Phùng** (chữ Hán: 潘廷逢; 18471896), hiệu **Châu Phong** (珠峰), tự **Tôn Cát**, là một nhà cách mạng Việt Nam, lãnh đạo của cuộc khởi nghĩa Hương Khê chống lại thực dân Pháp trong
**Thiệu Trị** (chữ Hán: 紹治 16 tháng 6 năm 1807 – 4 tháng 11 năm 1847), húy là **Nguyễn Phúc Dung** (阮福曧), sau cải thành **Nguyễn Phúc Miên Tông** (阮福綿宗), là vị hoàng đế thứ
nhỏ|phải|Đồ hình quẻ Thuần Khôn Quẻ **Thuần Khôn** còn gọi là quẻ **Khôn** (坤 kūn), tức **Đất** là quẻ số 2 trong Kinh Dịch. Đất mẹ, nhu thuận,
sinh sản và nâng đỡ muôn
**Nhà Lý** (chữ Nôm: 茹李, chữ Hán: 李朝, Hán Việt: _Lý triều_), đôi khi gọi là nhà **Hậu Lý** (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành lập) là một triều
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam
Thiếu tướng **Mom Rajawongse (M.R.) Kukrit Pramoj** ; (20 tháng 4 năm 1911 - 9 tháng 10 năm 1995) là một chính trị gia và học giả Thái Lan. Ông là chủ tịch Hạ nghị
Mảnh đất Hà Tiên gắn liền với lịch sử dòng họ Mạc, là dòng họ bậc khai quốc công thần có công khai khẩn, mở cõi và bảo vệ vùng đất cuối biển Tây Nam