✨Nuôi hươu nai

Nuôi hươu nai

Nuôi hươu nai và việc chăn nuôi các loài hươu, nai như một loại gia súc để lấy các sản phẩm từ chúng như thịt nai, sừng hươu đặc biệt là nhung hươu, pín hươu, tiết hươu hay da hươu, đây là những mặt hàng có giá trị trên thị trường. Hươu, nai vốn là động vật hoang dã, có sức đề kháng cao, vì vậy rất dễ chăm sóc, nuôi dưỡng. Nhu cầu nhung hươu, nai trên thị trường là rất lớn, thịt nai đang được bán với giá rất cao Trong đó, tuổi thọ của hươu sao khoảng 30 năm và sinh lợi khoảng 20-25 năm. Con cái mỗi năm đẻ một lứa, thông thường mỗi lứa đẻ một con, con đực mỗi năm cắt được một hoặc hai cặp nhung.

Tình hình chung

Nuôi hươu nai được phổ biến ở một số nước trên thế giới, New Zealand là nhà cung cấp lớn nhất về thịt nai nuôi, tính đến năm 2006, New Zealand đã có khoảng 3.500 trang trại hươu, nai, với trữ lượng ước tính 1,7 triệu hươu. Người Evenkya là một dân tộc sống dựa vào việc chăn nuôi hươu nai. Ở Việt Nam, nuôi hươu nai được coi là một mô hình kinh tế khá hiệu quả, giúp nhiều hộ dân xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là việc nuôi hươu sao để lấy lộc,

New Zealand

New Zeland là quốc gia có sản lượng đàn hươu lớn nhất và nhung hươu New Zealand rất phổ biến và được ưa chuộng tại các nước châu Á. Hươu New Zeland khá đa dạng về giống loài như Hươu Rusa (Cervus timorensis russa), Hươu đỏ (Cervus elaphus), Hươu nai sừng tấm – Wapiti (Cervus canadensis), Nai (Cervus unicolor), Hươu Sika, Hươu hoang và một số loài hươu khác. Hình thức nuôi hươu ở New Zeland đã đạt đến quy mô công nghiệp. Các trang trại hươu New Zeland có diện tích rất rộng, trải dài, thức ăn cho hươu được gieo trồng khắp nơi tạo ra môi trường chăn thả hoàn toàn tự nhiên, hầu như không thấy hàng rào bao quanh như một số nơi, hươu có thể sống thoải mái như trong điều kiện tự nhiên. Hươu nuôi tại New Zealand ít bị stress, mệt mỏi hoặc ức chế, cho chất lượng thịt và nhung tốt nhất thế giới. Chất lượng và độ an toàn của nhung hươu Newzealand đã được thế giới công nhận.

Nga

Việc nuôi hươu tại Nga tập trung tại vùng Siberia. Nhung hươu và sừng của con hươu Maral ở vùng Altai Sibiri thuộc Liên Bang Nga đã được các nhà khoa học Xô Viết từng so sánh với nhung hươu ở các nơi khác về chất lượng, các acidamin, nguyên tố vi lượng... thì thấy chất lượng nơi đay có nhiều nổi trội. Cũng chính nơi các nhà khoa học Liên Xô tìm ra tinh chất nhung hươu Pantocrin. ở khu vực này tồn tại và phát triển hai loại hươu chính: Hươu Maral và hươu sao, những năm gần đây các chuyên gia đưa giống hươu sao vào nuôi theo phương thức bán hoang dã giống như giống hươu Maral.

Hươu ở Sibiri được chăn thả trong các trang trại rộng lớn hàng hecta, điều kiện sống của chúng gần như hoang dã. Thức ăn của chúng chủ yếu là cỏ, nấm và thảo dược nên nhung của chúng rất tốt. Nhung hươu của Nga được khai thác theo tiêu chuẩn của Nga, thời gian khai thác đại trà là 40-45 ngày tính từ ngày sừng bắt đầu nhú, chiều dài của nhung hươu khoảng 30 – 50 cm và phân ba nhánh, nếu khai thác sớm (ngắn) thì trong nhung hươu các chất gây béo sẽ chiếm đa phần.

Các cá thể hươu được lựa chọn kỹ càng từ những bố mẹ có thể trạng tốt và chúng được treo số trên tai để tiện khi chăm sóc, theo dõi. Chúng được sống trong các khu vực rộng lớn giáp bìa rừng- núi Altai, sống trong môi trường gần như tự nhiên nên hươu vẫn sống như bản năng vốn có của nó. Thức ăn của hươu rất phong phú bao gồm các loại cỏ thơm, lá cây, thảo dược, nấm... Mùa hè dùng máy cắt cỏ với số lượng lớn và phơi tái để tích trữ đến mùa đông làm thức ăn cho hươu. Nước uống của hươu là nước mưa, nước sông hồ là chủ yếu. nhỏ|giữa Trong quá trình nuôi hươu không dùng bất kỳ các loại hóa chất hay chất tăng trọng nào nên chất lượng nhung và thịt rất cao. Cỏ khô thu hoạch vào mùa hè làm thức ăn chính của hươu vào mùa đông. Mùa đông thức ăn của chúng chủ yếu là cỏ khô được thu hoạch vào mùa hè. Trong tuyết trắng rất nhiều năng lượng, khi chúng tan ra những năng lượng đó được các loại cỏ, thảo dược thẩm thấu nên chất lượng thức ăn vào mùa xuân có giá trị dinh dưỡng rất cao. Giai đoạn nhung hươu mới nhú chưa được khai thác hoặc khai thác theo đơn hàng nhỏ.

Nai sừng tấm Á-Âu đã được nhốt giữ như vật nuôi nhốt ở Khu bảo tồn thiên nhiên Pechora-Ilych vào tháng 12 năm 1952. Năm 1949 một chương trình nội địa nai sừng tấm Á-Âu có quy mô nhỏ đã được bắt đầu, liên quan đến các nỗ lực chọn lọc sinh sản của các loài động vật trên cơ sở đặc điểm hành vi của chúng. Từ năm 1963, chương trình đã tiếp tục tại trại nuôi Nai sừng tấm Kostroma, trong đó có một đàn 33 con nai sừng tấm thuần hóa như trong năm 2003. Nếu con nai có thể được nuôi, chúng có thể được cung cấp thức ăn chăn nuôi thực tế, sử dụng các sản phẩm khai thác gỗ: cành cây và vỏ cây. rất tốn kém để cung cấp nai sừng tấm Á-Âu nuôi nhốt với thức ăn phù hợp, như con nai này ăn uống cầu kỳ và sẽ không ăn nhánh cây dày hơn khoảng 10 mm (0,4 inch) hay đại loại như vậy.

Mặc dù ở giai đoạn này các trang trại không được dự kiến sẽ là một doanh nghiệp kinh doanh có lãi, thì nó cũng có một số thu nhập từ việc bán nai sừng tấm Á-Âu sữa và quảng bá cho các nhóm khách du lịch. Giá trị chính của nó, tuy nhiên, được nhìn thấy trong các cơ hội mà nó cung cấp cho các nghiên cứu trong sinh lý và hành vi của con nai sừng tấm, cũng như trong những hiểu biết nó cung cấp vào các nguyên tắc chung của động vật thuần hóa. Ở Thụy Điển, đã có một cuộc tranh luận vào cuối thế kỷ thứ 18 về giá trị quốc gia sử dụng con nai như một con vật nuôi nhà.

Những con nai sừng tấm Á-Âu con nhỏ sẽ không quên những con đường đến trại vào mùa đông, vì đây là nơi mà các bữa ăn hàng ngày của chúng luôn được phục vụ. Đây là cách chăn thả bán thuần có theo dõi của người dân của vùng đài nguyên, hoặc chăn cừu của thảo nguyên. Trong phần lớn năm, các con vật được phép dạo chơi tự do khắp khu rừng. Chúng thường không đi quá xa, tuy nhiên, bởi vì chúng biết các trang trại (hoặc trại mùa đông) là nơi để có được món ăn ưa thích của chúng và như một nơi an toàn để phục vụ cho việc sinh nở của chúng.

Một con bê con nai sừng tấm trang trại sinh được tách từ người mẹ của mình trong vòng 2-3 giờ sau khi sinh và được nâng lên bởi người dân. Đó là lần đầu tiên bú bình với một lượng sữa thay thế cho sữa mẹ, và sau đó cho ăn từ một cái xô. Kết quả là hiệu ứng imprinting làm con vật đang phát triển gắn liền với người dân, món yến mạch hấp sẽ vẫn là một trong các loại thực phẩm yêu thích cho phần còn lại của cuộc sống của nó. Trong khi đó, những con nai sừng tấm mẹ được vắt sữa bởi những cô gái vắt sữa của trang trại, do một cơ chế tương tự con nai con cái sẽ sớm nhận ra họ là "những đứa trẻ thay thế" của nó và yên tâm cho sữa.

Bình thường, nó có thể được cho chạy vào rừng; nó sẽ trở về với trang trại mỗi ngày để được vắt sữa trong phần còn lại của thời kỳ cho con bú mình (thông thường, cho đến tháng Chín hoặc tháng Mười). Vào mùa đông, các loài động vật dành nhiều thời gian ở các khu vườn này trong các khu rừng gần đó, nơi cây bị chặt để ăn các sản phẩm phụ của hoạt động khai thác. Các nguồn cung cấp dồi dào các loại thực phẩm rừng, cộng với khẩu phần ăn hàng ngày của yến mạch và nước muối giữ chúng xung quanh khu vực này thậm chí không cần phải có hàng rào.

Việt Nam

nhỏ|phải|Một con hươu sao đang trong tình trạng nuôi nhốt Hươu đã được thuần hóa ở nhiều nơi trên thế giới, ở Việt Nam hươu sao cũng đã được nuôi khoảng 1 thế kỷ nay, đầu tiên ở vùng Hương Sơn, Hà Tĩnh và Quỳnh Lưu, Nghệ An, hiện nay đã phát triển ra nhiều nơi Món quý nhất là huyết lộc hươu pha với rượu uống vào thì làm người ta trở nên khoẻ như vâm.

Hươu sao là một loài động vật quý hiếm và nhung hươu là vị thuốc bổ có giá trị cao. Hươu sao đã được nuôi dưỡng từ lâu đời ở Hà Tĩnh, nó đã trở thành nghề chăn nuôi truyền thống trong nông thôn, đã trở thành nghề chăn nuôi phát triển kinh tế gia đình. Đến nay, tổng số đàn hươu ở Hương Sơn đã đạt trên 1,2 ngàn con, số gia đình nuôi hươu đã tăng cao, có nhiều gia đình đã nuôi đến 10 - 30 con/hộ. Nghề nuôi hươu ở Quỳnh Lưu manh nha những năm 1928, 1930 tại vùng Quỳnh Tiến tại xã Tiến Thủy và đây là địa phương xuất hiện nghề nuôi hươu sớm nhất Việt Nam. Năm 1990, đàn hươu huyện Quỳnh Lưu lên tới 1,2 vạn con. Khi đó, lộc nhung đắt đỏ. Quỳnh Lưu là thủ phủ của hươu với 43 xã, thị trấn trong huyện có chuồng nuôi hươu. Xã Quỳnh Yên đứng đầu với số lượng hươu nuôi gần 2.000 con. chính quyền nơi đây còn dự định biến vùng đất hươu nai này thành một thương hiệu du lịch – dịch vụ tỉnh. Tại xã Quỳnh Yên vào năm 2010, toàn xã có gần 70% số hộ dân nuôi với tổng đàn 1.853 con hươu, nai, trong đó có trên dưới 400 con nai. Xã Quỳnh Yên trở thành một xã đứng đầu huyện về số hộ kinh doanh con giống và lộc nhung. Riêng năm 2010, tại xã Quỳnh Yên thu hoạch được 5 - 6 tấn lộc hươu

Tại xã Đức Minh, huyện Đăk Mil, tỉnh Đắk Nông trong hơn 10 năm nay, nhiều hộ nông dân đã thành công trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi với mô hình nuôi nai đạt hiệu quả cao. Tại xã Hòa Kiến, năm 2011, có 10 hộ nuôi nai với 17 con thì đầu năm 2012, số hộ nuôi tăng lên gấp đôi với 37 con, tập trung tại các thôn Sơn Thọ, Xuân Hòa, Quan Quang, Tường Quang và Minh Đức. Cư Êbur là xã vùng ven của thành phố Buôn Ma Thuột, Phần lớn số hộ dân trong xã làm nghề nông, thu nhập chính của người dân là chăn nuôi nai với chăn nuôi 2.460 con nai lấy nhung và sinh sản nai giống, trong đó 50% là nai đực cho lấy nhung và 50% là nai cái sinh sản, đàn nai đực cho thu hơn 3 tấn nhung.

Chế độ ăn

Thức ăn của hươu, nai không quá kén chọn, gồm tất cả các loại lá cây và cỏ, trung bình mỗi con ăn khoảng 10kg/ngày

Riêng hươu sao, nguồn thức ăn rất dồi dào, hơn nữa đây là loại động vật đã được thuần dưỡng từ lâu nên nhiều loài thức ăn hươu có thể ăn được, nó có thể ăn tới 50 loại thức ăn khác nhau, gồm: cỏ, lá cây, quả cây, rau và các loại chất bột. Chủ yếu là các loại lá mít, lá vả, lá sung, lá cây muối, lá dướng, lá hu đay (lá giấy), lá ngái, lá ngõa, lá vông, lá giới, lá khế, lá xoan, dây khoai lang, dây lạc, v.v. và nhiều loại củ quả: củ khoai, quả chuối....Nông dân biết chăn nuôi theo hướng thâm canh nên đã trồng cỏ để cho hươu như: cỏ voi, cỏ ghinê, cỏ sữa và còn có thể phơi khô để dành cho ăn dần. Nếu cho ăn cỏ tươi, lá cây và thêm một vài dạng thức ăn tinh bột để bồi bổ một cách đều đặn, đúng liều lượng thì hươu sao phát triển trọng lượng rất tốt. một con hươu đầu đàn to lớn, nặng trên năm chục cân, mỗi mùa cắt được 1,2 kg lộc, Nai nuôi 2 năm tuổi thì có thể lấy nhung nếu chăm sóc tốt thì 1 năm cắt nhung 2 lần. Nai cái mỗi năm đẻ 1 lứa. Nhung hươu, nai có giá trị cao, ngoài công dụng bồi bổ cơ thể, nhung hươu, nai còn chữa được nhiều loại bệnh, người ta thường ca ngợi nó trong 4 thứ thuốc quý: sâm, nhung, quế, phụ. nhỏ|trái|Một con hươu nuôi lấy lộc Người nuôi có thể cắt nhung và thời gian cắt kéo dài đến tháng hai, tháng ba âm lịch. Mỗi cặp nhung hươu nặng khoảng từ 400 đến 600 gram, nai khoảng 1 đến 1,6 kg, nếu được ăn đầy đủ chất dinh dưỡng, biết thúc vào thời điểm gần cắt, có cặp nhung nặng đến 2 kg. Bình quân mỗi năm có thể cắt nhung từ một đến hai lần ở mỗi con. Trong một năm, nai đực cho cắt nhung 2 đợt vào mùa xuân và mùa thu, với trọng lượng nhung từ 2–4 kg/con, thậm chí, có nai đực giống tốt, trong một năm có thể cho thu tới 8 kg nhung. Nhiều con hươu sau khi cắt vài tháng lại mọc thêm nhung, gọi là nhung tái sinh, mỗi cặp chỉ hai ba lạng, giá rẻ hơn nhung cắt ban đầu.

Khi cắt nhung phải dùng dụng cụ sắc như cưa và được khử trùng cẩn thận, cắt xong phải tiến hành cầm máu nhanh bằng các loại thuốc lá để tránh mất sức cho hươu, nai. Sau đó cho hươu, nai ăn nhiều hơn ngày thường và bổ sung thêm thức ăn tinh bột để giúp chúng nhanh hồi sức. Nếu chăm sóc tốt, hươu, nai có thể cho nhung đến hơn 20 năm. Như thời điểm cắt nhung, phải kiểm tra kỹ chuồng trại, kiểm tra cát lót dưới đất độ dày tới đâu, dụng cụ cắt nhung, rơm lót đầu nai...để khi giật nai xuống cắt nhung tránh tình trạng nai bị thương dẫn đến chết.

Đối với nai đen, Nai đực lấy nhung, chăm sóc nuôi dưỡng nai thời kỳ mọc nhung là quan trọng nhất trong chăn nuôi nai vì nhung nai sản sản phẩm thiết yếu nhất của nai, nai ra nhung (sừng non) thường nhú ra từ tháng 6 đến 9, muốn có cặp nhung tốt thì phải bồi dưỡng cho nai nhất là 1-2 tháng trước khi ra nhung, ngoài khẩu phần ăn bình thường hàng ngày cần bổ sung thêm thêm 0,5 đến 0,7 kg thức ăn hỗn hợp tinh, 1 đến 2 kg trái cây, tảng liếm khoáng treo ở đầu chuồng cho nai liêm tự do và 5 đến 7 ngày và cho ăn bổ sung từ 1 đến 2 quả trứng. Khi nhung nai mới nhú tránh rượt đuổi nai làm nai trượt ngã gãy nhung. Cắt nhung xong phải cầm máu, sát trung và băng kín chỗ cắt tránh ruỗi nhặng đậu vào gây nhiễm trùng, đồng thời nấu cháo gạo bối dưỡng cho nai chóng hồi phục. Thường lấy nhung nai 1 lần 1 cặp/năm cũng có khi 2 lần 2 cặp/năm. Nếu chăm sóc nuôi dưỡng đúng quy trình kỹ thuật cắt nhung sau 50-60 ngày kể từ khi mọc nhung thì mỗi năm 1 nai đực có thể cho 1 cặp nhung 0,9-1,0 kg/năm, cá biệt có con cho 1,5-1,6 kg/năm. Nếu khai thác non thì mỗi năm cho 2 cặp nhung 0.4-0.5 kg, cá biệt có con cho 2 cặp nhung, mỗi cặp 0.7-0.8 kg. Trong điều kiện nuôi nhốt một dời nai có thể kéo dài 15 năm và cho 15-17 cặp nhung.

Trong thời gian nai mang thai nên nhốt riêng mỗi con một ô chuồng để tiện quản lý và chăm sóc. Giai đoạn mang thai thời kỳ đầu từ tháng thứ nhất đến tháng thứ 5 cho nai ăn thức ăn bình thường. Giai đoạn mang thai thời kỳ 2 từ tháng thứ 6 đến lúc đẻ bổ sung thêm 0,5-0,7 kg thức ăn hỗn hợp tinh, cho ăn 2–3 kg trái cây, tảng liếm khoáng treo ở đầu chuồng cho nai liếm tự do. Thức ăn xanh cần cho ăn đa dạng hơn và cháo, cám, đu đủ, ngô. Khi nai con được 3 tháng tuổi đã biết tập ăn cỏ lá thì khẩu phần thức ăn của mẹ trở lại bình thường. Trong trường hợp nai cái lâu ngày không chửa đẻ ta phải tiêm hormol kích thích sinh dục. Nếu nai đẻ lứa đầu không biết cho con bú ta phải giữ bắt con mẹ cho con bú. Nai con mới đẻ ra cho bú sữa đầu càng sớm càng tốt, chậm nhất 3-4 giờ sau khi đẻ. Nếu nai mẹ thiếu sữa thức ăn tập ăn kém chất lượng làm cho nai rối loạn tiêu hóa dẫn đến tiêu chảy, hàng ngày cho nai vận động và tiếp xúc với con người tạo điều kiện cho nó thân thiết với con người.

Bệnh tật

nhỏ|phải|Hươu nai ăn uống sạch sẽ nên ít khi mắc bệnh Hươu nai sống rất sạch, không ăn các loại thức ăn bẩn, ôi thiu nên chúng ít bị bệnh, thỉnh thoảng mới bị các loại bệnh thông thường như: sình bụng, ỉa chảy, ký sinh trùng và chỉ cần điều trị như các loại gia súc khác, hươu sao có sức đề kháng bệnh tương đối cao, ít khi bị bệnh lặt vặt. Nếu nuôi hươu sao, cần lưu ý nguồn nước hợp vệ sinh như nước thủy cục hoặc nước giếng đóng có độ ph từ 6,5 đến 8,5 cũng đều sử dụng được. Tuy nhiên, ở Nghệ An đã xuất hiện một loại dịch lạ làm cho đàn hươu, nai của huyện chỉ bỏ ăn mấy ngày, sốt, chướng bụng rồi lăn ra chết hàng loạt. Cuối năm 2010, đầu 2011, hươu Quỳnh Lưu đứng trước nguy cơ toàn huyện có 483 con hươu bị chết. Nhiều con đang khoẻ mạnh, ăn uống bình thường, bỗng lăn ra chết. Ngoài ra, do thiếu kiến thức và kinh nghiệm trong nuôi nai nên nhiều hộ nuôi ở xã Hòa Kiến đã để nai bị chết trong lúc cắt nhung hay sinh đẻ. Hươu sao là loài vật ít bị nhiễm bệnh nếu khu vực chuồng trại thường xuyên được vệ sinh, cách ly với môi trường bên ngoài.

Đối với loài nai đen, Nai dễ bị mắc bệnh cảm nóng và say nắng vào mùa hè từ tháng 4 đến tháng 8 ở Việt Nam do ở ngoài nắng gắt quá lâu, thiếu nước uống. Nai đột nhiên trông lờ đờ chậm chạp, thường hay nằm, không nhai lại, mạch nhanh, thở gấp, mắt đỏ ngầu, có khi mồ hôi toát ra đầm đìa. Không can thịêp kịp thời nai có thể bị chết. Vào mùa hè không cho nai ở ngoài trời nắng gắt quá lâu. Trong sân vườn nên có nhiều cây bóng mát, đặt nhiều chậu đựng nước có pha muối cho nai uống. Bệnh chướng bụng đầy hơi do nai ăn phải thức ăn kém phẩm chất, như lá cỏ bị thối, mốc, hoặc lá cỏ tươi còn ướt nước hoặc đẫm sương, chúng cũng bị bệnh do nai ăn nhanh quá hay no quá, nhất là ăn no xong lại vận động ngay. Cũng có thể do thay đổi thức ăn đột ngột, từ thức ăn tươi chuyển sang thức ăn khô, hoặc cho ăn no đói thất thường. Do do thức ăn trong dạ cỏ lên men nhanh, sinh ra nhiều hơi, làm bụng phình chướng lên về phía bên trái (phồng cao hơn cả mõm xương hông).

Nếu lấy ngón tay gõ vào vùng bụng này sẽ nghe như tiếng trống. Trực tràng đầy phân, dạ cỏ mất phản xạ co bóp, ngày càng chướng to ép lên cơ hoành, gây rối loạn tuần hoàn. Con vật thở rất khó khăn 2 lỗ mũi nở to, mạch nhanh, cổ cứng đờ. Bệnh nặng hơn nữa thì nai sùi bọt mép, ra mồ hôi đầm đìa, mạch yếu dần, rồi chết vì ngạt thở. Do đó trong chăn nuôi không cho nai ăn những thức ăn kém phẩm chất, không cho ăn quá no và sau khi ăn cần tránh cho vận động quá mức. Không cho ăn lá, cỏ ướt nhiều thành phần và khối lượng thức ăn cần thay đổi dần dần tránh đột ngột. Đối với bệnh ỉa chảy thì triệu chứng có thể thấy là nai đi phân lỏng do thức ăn kém phẩm chất hoặc do ăn nhiều thức ăn ướt có nhiều nước như củ khoai lang, dây lạc, thức ăn ủ xanh hay đường tiêu hoá bị viêm hoặc giun sán quá nhiều. Thời tiết thay đổi đột ngột, ăn ở bẩn và chật cũng là một trong những nguyên nhân gây ra bệnh này. Nai kém ăn, hơi sốt, mũi khô, lông xơ xác.

Thời gian đầu thường táo bón, sau ỉa lỏng nhiều lần, làm dính bẩn từ khấu đuôi đến khoeo chân. Phân có màu xanh vàng, sau xanh đen xám, mùi thối khắm, nhiều khi có lẫn những màng nhầy. Nai bị bệnh gầy đi rất nhanh do mất nhiều nước, kiệt sức dần rồi chết. Ban đầu để nai nhịn ăn hẳn trong 1-2 ngày và cho uống nhiều nước sắc đặc những thứ lá chát như búp ổi, lá sim, hồng xiêm để tống hết những thức ăn còn trong dạ dày và cho ăn cháo gạo hay cháo cám có bỏ muối mấy ngày sau khi khỏi đồng thời.

👁️ 3 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nuôi hươu nai** và việc chăn nuôi các loài hươu, nai như một loại gia súc để lấy các sản phẩm từ chúng như thịt nai, sừng hươu đặc biệt là nhung hươu, pín hươu,
**Hươu nai** là con vật hiện diện trong nhiều nền văn hóa trên thế giới. Với bản tính là loài vật nhút nhát, hễ có tiếng động là bỏ chạy, khi nghe có tiếng động
**Hươu Maral** hay còn gọi là **hươu đỏ Lý Hải** hoặc **hươu đỏ miền Đông** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus maral_) là một phân loài của loài hươu đỏ, có nguồn gốc ở khu
**Nai đen** (Danh pháp khoa học: _Cervus unicolor equinus_) là một phân loài của loài nai (_Rusa unicolor hay Cervus unicolor_) phân bố ở vùng Đông Dương đến bán đảo Mã Lai. Đây là loài
**Nai sừng xám Mãn Châu** (Danh pháp khoa học: **_Cervus canadensis xanthopygus_**) là một phân loài của loài nai sừng xám Cervus canadensis. Đây là một loài bản địa của vùng Đông Bắc Á, phân
**Nai sừng xám Altai** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis sibiricus_) hay còn gọi là **nai đỏ** là một phân loài của loài nai sừng xám được tìm thấy trong các ngọn đồi rừng của
NHUNG HƯƠU TƯƠI SIBERIANhung hươu loại nhỏ của Công ty Eco SiberiaCo., Ltd là loạicó chất lượng cao và cung cấp rất nhiều dưỡng chất tốt cho sức khỏe. Bởi chúng được chăn thả trong
**Hươu đỏ đảo Corsica** (Danh pháp khoa học: _Cervus elaphus corsicanus_ Erxleben, 1777), còn được gọi đơn giản là **hươu Corsica** hay **hươu Sardinia**, là một phân loài của hươu đỏ (Cervus elaphus) và là
thumb|Chiếc đuôi đen nổi bật của loài hươu này **Hươu đuôi đen** (tiếng Anh: _black-tailed deer_ hoặc _blacktail deer_) (danh pháp ba phần: _Odocoileus hemionus columbianus_) là một phân loài của hươu la (Odocoileus hemionus).
**Nai sừng tấm Á-Âu** (Danh pháp khoa học: _Alces alces_) là một loài thú trong phân họ Capreolinae thuộc họ hươu nai (Cervidae). Đây là loài thú to lớn nhất và nặng nhất còn tồn
**Nai vàng Đông Dương** (Danh pháp khoa học: **_Hyelaphus annamiticus_**) là một loài thuộc chi Hyelaphus và cũng được coi là phân loại của hươu vàng là động vật bản địa của Campuchia, Lào, Trung
CAO BAN LONG - VỊ THUỐC CỔ TRUYỀN TỪ NGÀN ĐỜI Cao ban long, hay còn được gọi là lộc giác giao, là bài thuốc y học cổ truyền nổi tiếng từ thời xưa, được
**Hươu sao** (_Cervus nippon_) là một loài hươu có nguồn gốc ở phần lớn Đông Á và được du nhập đến nhiều nơi khác trên thế giới. Trước đây được tìm thấy từ miền bắc
Nhung hươu là sừng non của con hươu, khi được ngâm cùng mật ong nó sẽ giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường trao đổi chất, cải thiện trí nhớ...Nhung hươu là sừng non của
Nhung hươu là sừng non của con hươu, khi được ngâm cùng mật ong nó sẽ giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường trao đổi chất, cải thiện trí nhớ...Nhung hươu là sừng non của
Nhung hươu là sừng non của con hươu, khi được ngâm cùng mật ong nó sẽ giúp bồi bổ cơ thể, tăng cường trao đổi chất, cải thiện trí nhớ...Nhung hươu là sừng non của
CAO BAN LONG (Tên khoa họcColla Cornus Cervi) Cao Ban Long được chiết xuất từ sừng hươu, một loài cao quý hiếm chỉ đứng sau cao hổ cốt. Trong Dược Phẩm Vậng Yếu của Hải
nhỏ|phải|Một con bò sữa được chăn thả trên thảo nguyên tại Đức nhỏ|phải|Một giống [[bò Hà Lan, đây là gia súc cao sản chuyên cho sữa]] **Chăn nuôi gia súc lấy sữa** là việc thực
**Nuôi động vật hoang dã** (_Wildlife farming_) hay còn gọi gọn là **nuôi thú rừng** là hoạt động nuôi nhốt động vật với đối tượng là các loài động vật hoang dã chưa thuần hóa
nhỏ|phải|Một cây lộc pín được bày bán **Lộc pín** (Chữ Hán: 鹿鞭; bính âm: lù biān) hay **pín hươu** hay **ngẩu pín hươu** là dương vật của các loài hươu nai. Trong y học Trung
**Nai sừng xám Roosevelt** hay còn được biết đến như là **Nai Olympic** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis roosevelti_) là một phân loài của loài nai sừng xám ở Bắc Mỹ. Tên của loài
**Nai Kashmir** (Danh pháp khoa học: _Cervus canadensis hanglu_) còn gọi là **Hangul** là một phân loài của loài nai sừng xám Bắc Mỹ bản địa của Ấn Độ, đặc biệt là ở Jammu và
nhỏ|phải|Một con tuần lộc nuôi đang thay lông nhỏ|phải|Một con tuần lộc nuôi giống đực ở [[Alaska]] **Chăn nuôi tuần lộc** hay **chăn thả tuần lộc** (_Reindeer herding_) là các hoạt động chăn nuôi, chăn
**Hươu sao Đài Loan** (Danh pháp khoa học: _Cervus nippon taioanus_) ) là một phân loài của loài hươu sao và là loài đặc hữu của đảo Đài Loan. Hươu Đài Loan, giống như hầu
**Nai sừng tấm miền đông** (tên khoa học: _Alces alces americana_) là một phân loài của Nai sừng tấm mà phạm vi sinh sống dao động trong hầu hết các vùng phía Đông Canada và
**Nai sừng tấm Alaska** (Danh pháp khoa học: _Alces alces gigas_) còn được biết đến với tên gọi là **Nai sừng tấm lớn** là một phân loài của Nai sừng tấm châu Âu, phân bố
**Nai cà tông Sangai** hay còn gọi đơn giản là **Nai Sangai** (Danh pháp khoa học: _Panolia eldii eldi_) là một phân loài của loài nai cà tông phân bố ở Manipur, Ấn Độ. Đó
**Hươu đùi vằn hay Okapi** (/ oʊˈkɑːpiː /; _Okapia johnstoni_), còn được gọi là **hươu cao cổ rừng, hươu cao cổ Congo**, hoặc **hươu cao cổ ngựa vằn**, là một loài động vật có vú
**Hươu sao Nhật Bản** (Danh pháp khoa học: _Cervus nippon nippon_; chữ Nhật: ニホンジカ/日本鹿/nihonjika) là một phân loài của loài hươu sao phân bố ở phía nam của đảo Honshu, Shikoku và Kyushu. hươu sao
nhỏ|phải|Một con hươu cái **Hươu la California** (tên khoa học **_Odocoileus hemionus subsp. californicus_**) là một phân loài của hươu la có phạm vi phân bố bao gồm nhiều tiểu bang California thuộc Hoa Kỳ.
nhỏ|phải|[[Hổ, động vật được biết đến là đã tấn công người rùng rợn trong lịch sử]] **Động vật tấn công** hay đôi khi còn được gọi là **thú dữ tấn công** chỉ về các vụ
**Hươu sao Mãn Châu** hay còn gọi là **hươu sao Dybowski** (Danh pháp khoa học: _Cervus nippon mantchuricus_ hay là _Cervus nippon dybowskii_) là một phân loài của loài hươu sao, chúng là phân loài
**Chó săn hươu Na Uy** hay **Chó săn nai Na Uy** () là một trong những giống chó đuôi cuộn Bắc và là Chó Quốc gia Na Uy. Chó Norwegian Elkhound đã được nuôi để
nhỏ|[[Cừu nhà|Cừu và bò sữa được nuôi tại Nam Phi]] **Gia súc** là tên dùng để chỉ một hoặc nhiều loài động vật có vú được thuần hóa và nuôi vì mục đích để sản
Huyện **Evenkiysky** là một huyện (_raion_) của Krasnoyarsk krai (vùng Krasnoyarsk), ở phía đông Siberi, với huyện lỵ là Tura. Huyện Evenkiysky rộng 767.600 km² (tương đương Thổ Nhĩ Kỳ), dân số 16.700 người (năm 2008),
**Hồ Nhĩ Hải** (tiếng Trung: 洱海, ěrhǎi) trông giống như một cái tai. Nó là một hồ trên núi cao ở miền tây nam Trung Quốc, trong địa phận tỉnh Vân Nam, cách Côn Minh
nhỏ|phải|Bò bison châu Mỹ là loài thú trên cạn lớn nhất Tây Bán Cầu nhỏ|phải|Voi là loài thú lớn nhất trên cạn nhỏ|phải|Tê giác trắng là loài thú guốc lẻ lớn nhất **Các loài thú
nhỏ|phải|Những con [[Bò tót Tây Ban Nha|bò tót sẽ điên tiết và húc thẳng vào bất cứ thứ gì màu đỏ, đây là một định kiến phổ biến, trên thực tế, bò bị mù màu,
Một cảnh [[săn lợn rừng bằng chó săn]] thumb|Quý tộc [[đế quốc Mogul săn linh dương đen Ấn Độ cùng với báo săn châu Á]] **Săn** là hành động giết hay bẫy bất kỳ loài
**Hổ** hay còn gọi là **cọp**, **hùm** (và các tên gọi khác như **Ông ba mươi**, **kễnh**, **khái**, danh pháp khoa học: _Panthera tigris_) là một loài động vật có vú thuộc họ Mèo được
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
nhỏ|phải|[[Hươu nai, con mồi phổ biến của các loài hổ, báo, sói, gấu...]] **Con mồi** hay **thú mồi** là một thuật ngữ sinh thái học chỉ về một động vật là đối tượng bị săn
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
nhỏ|phải|Những con [[tê giác châu Phi, ngày nay, chúng là biểu tượng của sự nghiệp bảo tồn động vật, trong lịch sử chúng từng được xem như loài thần thú trị thủy]] nhỏ|phải|Họa phẩm về
phải|Hai con lợn rừng **Lợn rừng** hay **heo rừng** (_Sus scrofa_) còn được gọi là **lợn lòi** là một loài lợn sinh sống ở lục địa Á-Âu, Bắc Phi, và quần đảo Sunda Lớn. Con
nhỏ|[[Bò nhà là một loài động vật được nhắc đến rất nhiều trong Kinh Thánh, chúng là loài chứng kiến cảnh Chúa Giê-su giáng sinh]] nhỏ|phải|Con cừu được nhắc đến trong Kinh thánh như là
nhỏ|phải|Một con [[hổ đang ăn thịt nai, hổ là động vật ăn thịt hoàn toàn, chế độ ăn của chúng phần lớn toàn là thịt, mỗi năm chúng cần ít nhất 50 con hươu nai
**Việc thuần hóa động vật** là mối quan hệ, tương tác lẫn nhau giữa động vật với con người có ảnh hưởng đến sự chăm sóc và sinh sản của chúng. Thuần hóa động vật
nhỏ|phải|[[Hươu đỏ là loài được xếp vào danh sách 100 loài xâm lấn tồi tệ nhất, chúng hủy diệt hệ thực vật ở những nơi chúng sinh sống, nơi không có thiên địch kiểm soát
nhỏ|phải|Bò trắng là sinh vật thần thoại trong [[Ấn Độ#Văn hoá|văn hóa Ấn Độ cũng như trong Phật giáo, người Ấn Độ theo Ấn Độ giáo rất tôn sùng con bò và không giết mổ