✨Hà Âm

Hà Âm

Hà Âm (chữ Hán: 河陰) là một huyện cũ thuộc tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn Việt Nam. Ngày nay là phần đất thuộc các huyện phía Nam của tỉnh Takéo Campuchia, vùng đất phía bờ Bắc (bờ trái theo hướng về thượng nguồn) kênh Vĩnh Tế.

Vị trí

nhỏ|phải|Vị trí địa danh huyện Hà Âm tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn độc lập trên vùng đất phụ cận tỉnh An Giang ngày nay. nhỏ|trái|An Giang trong bản đồ [[Nam Kỳ Lục tỉnh (Basse Cochinchine). Đường biên giới giữa Vương quốc Campuchia của người Khmer với Nam Kỳ Lục Tỉnh (Frontiére du Royaume de Cambodge de Khmere de la Basse CochinChine), chạy song song cách xa kênh Vĩnh Tế (Canel de Vinh Te ou de Hatien) với một vùng đất (là huyện Hà Âm và một phần huyện Tây Xuyên An Giang, một phần huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên) nằm kẹp ở giữa, và bao vùng lồi Svay Rieng (nguyên thuộc phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định) trong phần lãnh thổ Nam Kỳ Lục Tỉnh.]] phải|An Nam Đại Quốc Họa Đồ của Taberd, in năm 1838, cho thấy cả ba địa danh: Châu Đốc, Giang Thành, và Vĩnh Tế giang đều nằm sâu trong nội địa [[Nam Kỳ thay vì nằm ở biên giới Việt-Miên như ngày nay, giữa biên giới Việt-Miên thời đó và tuyến kênh Vĩnh Tế-Giang Thành còn có một vùng đất đệm có chứa huyện Hà Âm ở đó (phía Bắc kênh Vĩnh Tế).]] phải|Cochinchine ([[Nam Kỳ Lục tỉnh), vẽ năm 1872, tuyến đường thủy: Hatien (thành Hà Tiên)-Gienthan (Giang Thành)-Canal de Vinhte (kênh Vĩnh Tế)-Chaudoc (thành Châu Đốc), đều nằm sâu trong nội địa Nam Kỳ thay vì nằm ở biên giới Việt-Miên như ngày nay, giữa biên giới Việt-Miên thời đó và tuyến kênh Vĩnh Tế-Giang Thành còn có một vùng đất đệm có chứa huyện Hà Âm ở đó (phía Bắc kênh Vĩnh Tế).]] Huyện Hà Âm phủ Tuy Biên, trước là đất huyện Châu Thành nước Cao Miên, gồm 2 tổng với 40 làng xã, phía Tây giáp huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên, phía Nam giáp huyện Hà Dương, phía Đông giáp huyện Tây Xuyên, phía Bắc giáp nước Cao Miên. Theo Đại Nam nhất thống chí: huyện Hà Âm nằm bên trái (tả, tức bờ phía tây bắc) sông Vĩnh Tế. Như vậy, vào thời này, vùng đất huyện Hà Âm thuộc phần đất giáp biên giới của Campuchia với Việt Nam, tức là phần đất huyện Kiri Vong, và có thể cả phần đất các huyện Kaoh Andaet, Bourei Cholsar thuộc tỉnh Takeo Campuchia.

Đại Nam nhất thống chí chép rằng: "Huyện Hà Dương ở Tây Nam phủ 40 dặm. Đông đến Tây cách nhau 68 dặm, Nam đến Bắc cách nhau 73 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây Xuyên 44 dặm; phía tây đến huyện giới Hà Châu tỉnh Hà Tiên 24 dặm; phía Nam đến huyện giới Kiên Giang tỉnh Hà Tiên 38 dặm; phía bắc đến huyện giới Hà Âm 35 dặm... Huyện Hà Âm ở Tây Bắc phủ 80 dặm. Đông đến Tây cách nhau 73 dặm, Nam đến Bắc cách nhau 42 dặm. Phía đông đến huyện giới Tây Xuyên 38 dặm; phía tây đến huyện giới Hà Dương [Hà Châu] 25 dặm; phía bắc đến cảnh giới nước Cao Miên 17 dặm. Nguyên trước là đất của 2 huyện Tây Xuyên và Chân Thành. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839) chia đặt huyện này, lấy phía tế [phía tả] sông Vĩnh Tế làm huyện Hà Âm, thuộc phủ hạt Tĩnh Biên..." "... đánh giặc ở huyện Hà Âm. Trước đây bọn giặc rủ nhau tụ họp ở xứ Liệt Điệt (thuộc tỉnh Hà Tiên), Tổng đốc Long-Tường là Dương Văn Phong sai Cẩm y Phó vệ uý Hoàng Văn Quý chia đường tiến đánh lấy luôn được 4 đồn, thừa thắng chuyển sang đánh ở Cần Sư. Phong lại tiến đánh các miền núi ở huyện Hà Dương, vừa gặp thự tuần phủ Hà Tiên Lê Quang Huyên đem quân từ Giang Thành đến, chia nhau đi dẹp giặc ở Hà Âm... chém bắt được rất nhiều quân giặc. Phong ở lại để dẹp trong hạt Tĩnh Biên, còn Huyên trở về Giang Thành. Rồi sau, bọn giặc lại ngầm về Hà Âm, đặt trại đóng quân ở thành Cổ Man. Phong bèn đem thự lãnh binh Nguyễn Duy Tráng,... đẵn phá nơi đường tắt hiểm trở, đầu tiên đánh phá được sào huyệt của bọn giặc ở hai núi Châu Chiêm và Thâm Đăng (đều thuộc huyện Hà Âm)..." "Tháng 4 âm lịch, năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất [1841]:... Nguyễn Tri Phương, Đinh Văn Huy và Lương Văn Liễu đi tiễu phỉ ở núi Tượng Sơn (thuộc huyện Hà Dương)." (Tượng Sơn là một trong 7 ngọn núi gọi là Thất Sơn. Vùng Thất Sơn (Bảy Núi) là thuộc huyện Hà Dương). *"Tháng 11 âm lịch, năm Tân Sửu niên hiệu Thiệu Trị thứ nhất (1841):... Lĩnh Tuần phủ tỉnh An Giang Nguyễn Công Trứ cùng thự đề đốc Vĩnh Long Đoàn Văn Sách tâu về [triều đình Huế] rằng: "Vĩnh Tế là đường vận tải và thông báo [tin] của tỉnh An Giang, phía bắc sông này liên tiếp với Thất Sơn, phía nam sông này liên tiếp với các núi Sâm Đăng, Chân Sâm, Bà Đê, Cần Thế, Lệ Chân, phàm những đường có thể qua lại, bọn thổ phỉ đều dựa vào chỗ hiểm, đặt đường làm chước cố giữ... Nếu đến cuối mùa đông, khô ráo, một mớ lửa đốt cháy sạch mặt đất, chúng tất lại đến quấy nhiễu. Thất Sơn chưa dẹp yên, vẫn còn ngăn trở phía sau sông Vĩnh Tế, nên một phen hết sức tiễu trừ để tuyệt hết mối lo về sau. Nay từ bờ sông vào phía trong, còn có nước đọng, nếu số quân tiến tiễu nhiều thì chia thành 5 đạo, do đường qua Vĩnh Tế [thuộc Tây Xuyên], Tĩnh Biên [phủ thành Tĩnh Biên cũ nằm trên đất Hà Dương], Tiên Nông [thuộc Hà Châu tỉnh Hà Tiên], Vĩnh Thông [thuộc Hà Âm], Vĩnh Gia [thuộc Hà Âm] cùng tiến lên..." Vua dụ rằng: "Thất Sơn ở sau lưng Vĩnh Tế, tuy gọi là hiểm trở, nhưng chỗ đó bọn giặc tụ tập chẳng qua chỉ là bọn linh tinh còn sót,... Nay truyền cho Nguyễn Công Trứ và Đoàn Văn Sách hãy xét trong hạt mình, phòng bị cho nghiêm, nên để lính lưu lại An Giang nghỉ ngơi cho được rỗi sức"". Tuy nhiên trong lời tấu Nguyễn Công Trứ và Đoàn Văn Sách có sự nhầm lẫn Thất Sơn (bảy núi) ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế (cũng như các núi đối diện Thất Sơn (Sâm Đăng (Thâm Đăng), Chân Sâm (Chân Chiêm), Bà Đê, Cần Thế, Lệ Chân) lại ở bờ Nam) trong khi trên thực địa thì ngược lại: Thất Sơn (thuộc huyện Hà Dương) ở bờ Nam sông Vĩnh Tế (tức kênh Vĩnh Tế).

Núi non thuộc Hà Âm

nhỏ|phải|Hà Âm(河陰)và núi non tỉnh An Giang nhà Nguyễn trong bản đồ cổ thế kỷ 19. nhỏ|phải|Bản đồ Nam Kỳ với các địa danh giữa thế kỷ 19. núi Chân Sâm (真森山, Treang): theo Đại Nam nhất thống chí thì "Núi Chân Sum [Sâm] ở cách huyện Hà Dương [Âm] 10 dặm về phía Nam, cách bờ sông Vĩnh Tế 10 dặm về phía Tây Bắc, hình như hoa sen cắm xuống đất, thường có mây trắng bao phủ..." Theo Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức thì: "Núi Chân Giùm (真森山) ở địa phận phủ Chơn Giùm (真森府) Cao Miên, cách bờ phía tây bắc trung lưu sông Vĩnh Tế 10 dặm..." (Chữ 森 đọc theo Hán là sum hay sâm nhưng nếu đọc theo chữ Nôm là giùm hay giụm.) núi Thâm Đăng hay Thâm Đưng (深簦山, Phnom Ba-yang): theo Đại Nam nhất thống chí thì "Núi Thâm Đăng ở phía Đông núi Chân Sum, cách huyện Hà Dương [Âm] 9 dặm về phía Đông Nam, cách cửa Vàm Nao chừng 1 dặm về phía Tây, đất đá lẫn lộn, tre pheo rậm rạp."

Đồn bảo (cửa khẩu và đồn binh) thuộc Hà Âm

nhỏ|Vị trí các làng Vĩnh Điều, Vĩnh Lạc của huyện Hà Âm, nằm trên bờ bắc kênh Vĩnh Tế. nhỏ|phải|Bản đồ vùng Hà Âm (kênh Vĩnh Tế, núi Chân Sum (núi Sung), núi Thâm Đăng (núi Than Dong)-Kiri Vong (biên giới Việt Nam-Campuchia) năm 1901. Vị trí các làng Vĩnh Điều (Vinh Diu), Vĩnh Điền (Vinh Dien), Vĩnh Lạc (Vinh Lac), Vĩnh Thông (Vinh Thong), Vĩnh Bảo (Vinh Bao) nằm bên bờ bắc kênh Vĩnh Tế. Thượng nguồn đông bắc sông Giang Thành là Linh Quỳnh. nhỏ|phải|Bản đồ vùng Hà Âm, Hà Dương (kênh Vĩnh Tế)-Kiri Vong (biên giới Việt Nam-Campuchia) năm 1906. Vị trí các làng Vĩnh Điều (Vinh Diu), Vĩnh Điện (Vinh Dien), Vĩnh Thông (Vinh Tong) nằm bên bờ kênh Vĩnh Tế. Các đồn bảo của nhà Nguyễn là các trạm sở cửa khẩu thu thuế giao thương, đắp bằng đất, trong thời chiến trở thành các đồn binh. Theo Đại Nam nhất thống chí trên địa bàn huyện Hà Âm có các đồn bảo sau: Bảo Vĩnh Thông, nằm trên đất làng Vĩnh Thông trên bờ sông Vĩnh Tế (Vị trí làng này ngày nay thuộc xã An Nông huyện Tịnh Biên tại phía bắc kênh Vĩnh Tế trên biên giới với xã Saom (tức Sóc Sum) huyện Kiri Vong tỉnh Takéo Campuchia). Theo thống kê địa bạ năm 1836, làng này có tổng lượng ruộng đất là 6,7 mẫu (tức khoảng 3,28 ha). Tuy nhiên, vị trí làng này ngày nay không còn dấu vết. Mà tại phía bắc thị trấn Ba Chúc huyện Tri Tôn, (ở khoảng lân cận xã Lạc Quới và thị trấn Ba Chúc ngày nay) có một cây cầu cũng được gọi là cầu sắt Vĩnh Thông được người Pháp xây dựng năm 1920. Bảo Vĩnh Lạc (trên đất làng Vĩnh Lạc, thuộc khoảng bờ bắc kênh Vĩnh Tế, nay thuộc xã Lạc Quới huyện Tri Tôn). Bảo Thân Nhân Bảo Vĩnh Gia, (trên đất làng Vĩnh Gia, có thể nay thuộc khoảng bờ bắc kênh Vĩnh Tế ở vị trí xã Vĩnh Gia huyện Tri Tôn tỉnh An Giang) *Bảo Vĩnh Điều (trên đất làng Vĩnh Điều, thuộc khoảng bờ bắc sông Vĩnh Tế, Thân Nhơn (Thân Nhân), An Quới, Long Thạnh, Linh Quỳnh (Luih-Quinh tức làng Prey-Angkonh), Cổ Man (sóc Kaoh Moan),...

Lịch sử

nhỏ|phải|Bản đồ vùng đất tỉnh [[An Giang ngày nay vào thời tỉnh An Giang nhà Nguyễn và thời kỳ đầu thuộc Pháp. Vùng đất phía bắc kênh Vĩnh Tế thời Nguyễn (trong đó có huyện Hà Âm) từng thuộc tỉnh An Giang, nằm trong lãnh thổ Đại Nam (Việt Nam), đến thời Pháp thuộc thì cắt trả về cho Cao Miên (Campuchia) thuộc Pháp.]] Tháng 4 âm năm 1824, Nặc Ông Chân (Ang Chan II), hiến tặng nhà Nguyễn thông qua Nguyễn Văn Thoại (để trả ơn Thoại), 3 vùng Chân Sum (còn gọi là Chân Thành hay Chân Chiêm, nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Mật Luật (Ngọc Luật, cũng nằm giữa Giang Thành và Châu Đốc), Lợi Kha Bát (Prey Kabbas tỉnh Takeo). Nhà Nguyễn chỉ lấy 2 đất Chân Sum (Treang) và Mật Luật (Meát Chruk). Chân Sum sau được phân vào hai huyện Hà Âm và Hà Dương từng thuộc phủ Tĩnh Biên Hà Tiên, trước khi chia về cho tỉnh An Giang. Cao Xuân Dục viết trong Quốc triều chính biên toát yếu như sau: "Vua nước Chân Lạp là Nặc Chân gửi thư cho quan bảo hộ Nguyễn Văn Thụy xin cắt đất 3 phủ: Lợi Kha Bát, Chân Sum, Mật Luật để trả ơn ông Thụy [Thoại]... Thụy đem thư ấy báo thành Gia Định, quan thành ấy [Lê Văn Duyệt] tâu lên, Ngài khiến đình thần bàn. Lê Văn Duyệt tâu rằng: "Vua Chân Lạp không phải bản tâm báo ơn Thụy, chẳng qua vì người Xiêm nuôi em nó [tranh chấp nội bộ Cao Miên], nên nó muốn cho ta bảo hộ được bền vững đó thôi. Ta mà nhận cả... người Xiêm có điều nói được, ta mà khước cả thì e không phải ý Đức Thế tổ Cao hoàng đế trù nghĩ việc ngoài biên. Vả lại, đất 3 phủ ấy thì đất Lợi Kha Bát hơi xa, khước đi cũng phải, còn đất Châu Sum, Mật Luật thì ở chính giữa đất Châu Đốc, Giang Thành ta, xin nhận lấy đất mà đừng thu thuế, khiến cho nó biết triều đình ta chỉ lo việc ngoài biên không phải vì tham lợi,... mà vui lòng thuần phục,..."... Ngài cho là phải [và sai] khiến Thụy nhận lấy dân phủ Chân Sum và Mật Luật,..., còn thuế thì cứ giao cho vua nước nó [Ang Chan II]. Nhưng [Thụy] phải làm tờ thư mà đáp lại cho Chân Lạp."

Năm Minh Mạng 20 (1839), nhà Nguyễn cắt đất huyện Chân Thành phủ Chân Chiêm thuộc Trấn Tây Thành (xứ Cao Miên do nhà Nguyễn bảo hộ) hợp với phần đất cắt từ huyện Tây Xuyên để lập hai huyện Hà Dương (ở bờ Nam sông Vĩnh Tế) và Hà Âm (ở bờ Bắc sông Vĩnh Tế) phủ Tĩnh Biên (Tịnh Biên) của tỉnh Hà Tiên (sau chuyển sang tỉnh An Giang).

Năm Thiệu Trị thứ 2 (1842), Thiệu Trị trích phủ Tĩnh Biên cùng huyện Hà Dương của tỉnh Hà Tiên, sáp nhập vào An Giang. Năm 1844, trích thêm huyện Hà Âm của tỉnh Hà Tiên nhập vào phủ Tĩnh Biên, lúc này phủ Tĩnh Biên gồm các huyện Hà Âm, Hà Dương. Năm Tự Đức thứ 3 (1850), nhà Nguyễn bỏ phủ Tĩnh Biên, cho nhập 2 huyện Hà Âm và Hà Dương vào phủ Tuy Biên. Vào thời vua Tự Đức tỉnh An Giang gồm có 3 phủ với 10 huyện: Hà Âm, Hà Dương, Phong Phú, Tây Xuyên, Đông Xuyên, Vĩnh An, An Xuyên, Phong Nhiêu, Phong Thịnh, Vĩnh Định.

Đại Nam thực lục chép rằng: "Tháng 8 âm lịch năm Giáp Thìn niên hiệu Thiệu Trị thứ 4 (1844):... Đổi huyện Hà Âm tỉnh Hà Tiên cho lệ thuộc phủ Tĩnh Biên tỉnh An Giang, huyện Hà Dương và huyện Hà Âm nguyên thuộc tỉnh Hà Tiên (2 huyện vốn là đất Chân Thành, năm Minh Mạng thứ 20 [1839] tách ra để thuộc về phủ An Biên tỉnh Hà Tiên), năm Thiệu Trị thứ 2 [1842] trích huyện Hà Dương đổi về tỉnh An Giang, huyện Hà Âm vẫn thuộc về phủ An Biên; đến đây, lĩnh Tuần phủ Hà Tiên là Nguyễn Lương Nhàn nói địa thế huyện Hà Âm liền với phủ Tĩnh Biên, xin theo nơi gần, đổi sáp nhập tỉnh An Giang, để liệu cho dân. Vua ưng cho."

Không rõ đất huyện Hà Âm tồn tại trong lãnh thổ Việt Nam đến chính xác thời điểm nào thì lại thì lại trở về thuộc lãnh thổ Campuchia. Tuy nhiên, trong Đại Nam thực lục, bộ sử lớn nhất đương thời của Quốc sử quán triều Nguyễn thì sự kiện lịch sử cuối cùng được đề cập đến trong bộ sử này, liên quan tới những địa danh thuộc huyện Hà Âm (cái mà còn chứng tỏ sự tồn của Hà Âm trong lãnh thổ Việt Nam) là vào năm 1860. Đại Nam thực lục chép: "...Tháng 3 nhuận [âm lịch] năm Canh Thân niên hiệu Tự Đức thứ 13 [1860], lúc bấy giờ giặc Cao Miên kéo nhau quấy rối. Vua dụ bọn Tổng đốc [An-Hà] là Nguyễn Công Nhàn, Tuần phủ [An Giang] là Phan Khắc Thận ở An - Hà rằng: "Nay giặc Man hiện đang ra vào quấy rối ở các sở đồn bảo như... Tĩnh Biên, Giang Nông, Vĩnh Thông [Hà Âm] ở sông Vĩnh Tế tỉnh An Giang; Giang Thành, Tiên Thái, Kiên Giang, Thạch Động, Ba Xuyên tỉnh Hà Tiên. Lại nghe Tù trưởng Cao Miên [(là Norodom)], hẹn đến mùa thu nước lên, thuyền Tây Dương vào sông trong, bấy giờ chúng nó cùng nhau đánh ập lại. Lại [phía Lộc Sơn (Mũi Nai)] Hà Tiên thám báo giặc người hạt nước Thanh là Hoàng Quốc Lập, đầu mục Man là tên Tôn, chiêu dụ người Thanh, người Thổ ở Cần Bột, hẹn nhau đường thủy bộ chia đến quấy rối... Nguyễn Công Nhàn lập công cõi ngoài nhiều lần tỏ ra khó nhọc tài năng. Phan Khắc Thận trải nhiều chiến trận đã hiểu cơ nghi. Thế mà không nghĩ đến việc ấy, chỉ muốn vạch giới hạn tự giữ lấy. Sao lại trì hoãn thế?..." (Việc Quốc Lập... đến ở cõi đất Cao Miên, Tù trưởng Cao Miên giúp quân và lương cho.)"

Tới tháng 12 âm lịch năm Ất Sửu (tức đầu năm 1866), khi 3 tỉnh miền Đông (Gia Định (tỉnh), Biên Hòa (tỉnh), Định Tường) đã bị Pháp chiếm, Nam Kỳ chỉ còn 3 tỉnh miền Tây, vùng biên giới tỉnh An Giang và Hà Tiên với Cao Miên có sự hoạt động của cuộc khởi nghĩa Acha Xoa, thì biên giới đã lùi vào tới kênh Vĩnh Tế vùng Thất Sơn (Bảy Núi), vùng Hà Âm không còn được nhắc đến trong sử nhà Nguyễn nữa. Theo Đại Nam thực lục, chép về thời gian đó, viết: "''Tổng Đốc Vĩnh Long là Trương Văn Uyển và Tổng đốc An - Hà là Phan Khắc Thận đem tình hình biên giới và thế địch bí mật tâu lên. (Văn Uyển nói: Nước Cao Miên đã chia 2 lòng, cùng với nước Pháp tư thông, cầu lấy lại các xứ Thất Sơn. Khắc Thận nói:... Người Pháp thì thường bức bách phải nã bắt tên Xoa. Và lại, đất cheo leo, hiểm trở, rất nhiều sự khó làm.) Vua [Tự Đức] sai [triều thần] thương lượng nghị định. Bọn Đoàn Thọ, Trần Tiễn Thành cho là: "3 tỉnh [An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long] cheo leo, trơ trọi, mà nước Cao Miên đã bị người Pháp bảo hộ rồi, tạm hãy mềm dẻo, để yên lòng họ, cứ chiếu địa giới ngăn chặn, nếu thấy tên Xoa trốn vào địa giới ta thì bắt giao trả, để dứt mối nghi ngờ của họ [người Pháp]... Đến như Thất Sơn, năm trước đã dựng thành thôn và thu thuế, lại ở vào quãng 2 tỉnh An Giang và Hà Tiên, lại có sông Vĩnh Tế ngăn làm giới hạn, đều là đất của ta [Đại Nam], người Miên [triều đình Norodom] đến cầu người Pháp thu phục lại, (đó là theo lời phỏng đoán của tỉnh thần Vĩnh Long),..." Vua cho là phải,..."

Theo nghiên cứu của Nguyễn Đình Đầu, một phần lớn đất huyện Hà Âm đến thời Pháp thuộc đã bị người Pháp cắt cho lãnh thổ của Campuchia thuộc Pháp cùng với vài vùng đất khác dọc biên giới Việt Nam - Campuchia: như vùng đất tổng Hà Nhuận huyện Hà Châu tỉnh Hà Tiên kéo đến tận núi Linh Quỳnh cách biên giới 25 km, vùng được gọi là Mỏ Vịt (thuộc tỉnh Svay Rieng) nguyên là đất huyện Tân Ninh phủ Tây Ninh tỉnh Gia Định.

Chú thích và trích dẫn

👁️ 2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hà Âm** (chữ Hán: 河陰) là một huyện cũ thuộc tỉnh An Giang thời nhà Nguyễn Việt Nam. Ngày nay là phần đất thuộc các huyện phía Nam của tỉnh Takéo Campuchia, vùng đất phía
**Thảm sát Hà Âm** là một sự kiện chính trị triều Bắc Ngụy diễn ra trong năm 528. Đại tướng Nhĩ Chu Vinh sau khi tiến binh vào kinh giết hại Hồ Thái hậu đã
**Âm Lệ Hoa** (Phồn thể: 陰麗華; giản thể: 阴丽华; 5 - 1 tháng 3, 64), còn gọi là **Quang Liệt Âm hoàng hậu** (光烈陰皇后), nguyên phối nhưng là Hoàng hậu thứ hai của Hán Quang
nhỏ|Ẩm thực Iran **Ẩm thực Iran** hay **ẩm thực Ba Tư** (tiếng Ba Tư: آشپزی ایرانی) là phong cách ẩm thực truyền thống và hiện đại ở Iran (trước đây gọi là Ba Tư). Nằm
nhỏ|phải|Một [[bữa cơm Việt (với đầy đủ cơm, xôi, thịt, canh, cá, trứng, nước mắm, dưa cải, rau thơm) là một đặc trưng trong Ẩm thực Việt Nam]] nhỏ|phải|Món Thukpa trong [[ẩm thực Ấn Độ]]
**Trần Thu Hà** (sinh ngày 26 tháng 8 năm 1977), còn được biết đến với nghệ danh **Hà Trần**, là một nữ ca sĩ kiêm nhà sản xuất nhạc người Việt Nam. Nổi tiếng với
**Hồ Thị Ngọc Hà** (sinh ngày 25 tháng 11 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh **Hồ Ngọc Hà**, là một nữ ca sĩ kiêm người mẫu người Việt Nam. Cô bắt đầu
**Hà Anh Tuấn** (sinh ngày 17 tháng 12 năm 1984) là một nam ca sĩ người Việt Nam. Được đánh giá là một trong những nghệ sĩ âm nhạc Việt Nam xuất sắc nhất trong
**Tiếng Hà Lan** hay **tiếng Hòa Lan** () là một ngôn ngữ thuộc nhánh phía Tây của Nhóm ngôn ngữ German, được nói hàng ngày như tiếng mẹ đẻ bởi khoảng 23 triệu người tại
thumb|Chợ pho mát ở [[Gouda]] thumb|[[Rijsttafel nhỏ tại một bữa tiệc ở Hà Lan]] **Ẩm thực Hà Lan** () hình thành từ truyền thống nấu ăn của người Hà Lan. Ẩm thực của quốc gia
**Hà Lan** ( ) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire,
**Hà Tiên** (chữ Hán: _河僊_) là một trong sáu tỉnh đầu tiên ở Nam Kỳ Việt Nam, thành lập năm 1832. ## Lịch sử ### Vùng đất Hà Tiên xưa Xưa kia, đây là vùng
Năm Canh Tý (1840), hàng ngàn người dân bất mãn với chính sách cai trị của nhà Nguyễn đã tụ tập tại một số nơi trong tỉnh Hà Tiên (Việt Nam) làm thành nhiều cuộc
"**Nhớ về Hà Nội**" là một bài hát trữ tình của nhạc sĩ người Việt Nam Hoàng Hiệp, được xem là một trong những ca khúc hay nhất và nổi tiếng nhất viết về Hà
**Hà Nam** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2020, Hà Nam là đơn vị hành chính Việt Nam đông thứ 45 về số dân, xếp thứ 44 về
[[Phở - món ăn mang tính biểu tượng quốc tế của ẩm thực Việt Nam]] **Ẩm thực Việt Nam** là cách gọi của phương thức chế biến món ăn, nguyên lý pha trộn gia vị
**Đài Phát thanh – Truyền hình Hà Nội** là cơ quan truyền thông báo chí trực thuộc Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà Nội. ## Lịch sử * Đài Phát thanh – Truyền hình
**Hà Bắc** (; bính âm bưu chính: **Hopeh**) là một tỉnh nằm ở phía bắc của Trung Quốc. Giản xưng của Hà Bắc là Ký, Hán tự: "", theo tên Ký châu thời Nhà Hán,
**Ẩm thực Hải Phòng** là một trong những phong cách chế biến ẩm thực địa phương của Việt Nam và cụ thể hơn là của vùng đồng bằng Bắc Bộ, với nền tảng nguyên liệu
"**Hà Tây quê lụa**" là một bài hát tiếng Việt mang nội dung quê hương – đất nước thuộc thể loại trữ tình được sáng tác năm 1965 của nhạc sĩ Nhật Lai. Ca khúc
**Lưỡng Hà** (tiếng Anh: **Mesopotamia**) là một khu vực lịch sử ở Tây Á nằm trong hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía bắc của Lưỡi liềm màu mỡ. Ngày nay, Lưỡng Hà nằm
**Chùa Hà** (Chữ Hán: 河寺) có tên chữ là **Thánh Đức tự** (Chữ Hán: 聖德寺), cùng với **Đình Bối Hà**, lập thành cụm di tích Đình - Chùa Hà nằm trên một mảnh đất, trước
nhỏ|Văn Miếu - Quốc Tử Giám, một biểu tượng của thành phố Hà Nội, biểu tượng của lịch sử ngàn năm văn hiến và du lịch của Thủ đô|382x382pxĐài tưởng niệm liệt sĩ Bắc Sơn
**Âm vị học tiếng Việt** là môn học nghiên cứu về cách phát âm tiếng Việt. Bài viết này tập trung vào các chi tiết kỹ thuật trong việc phát âm tiếng Việt viết bằng
**Vũ Nguyễn Hà Anh** (sinh ngày 10 tháng 4 năm 1982 tại Hà Nội), thường được biết đến với nghệ danh **Hà Anh**, là một người mẫu, người dẫn chương trình, đạo diễn thời trang
**_Giải thưởng Âm nhạc Cống hiến_** là một giải thưởng âm nhạc thường niên của Việt Nam do báo _Thể thao & Văn hóa_ tổ chức. Danh sách đề cử và chiến thắng được thống
**Phạm Thu Hà**, tên đầy đủ là **Phạm Thị Thu Hà** (sinh 09 tháng 10 năm 1982 tại Hải Phòng), là ca sĩ và nhà sản xuất thu âm người Việt Nam. Cô thường được
**Trần Thu Hà** tên khai sinh là **Trần Bạch Thu Hà** (ngày 12 tháng 11 năm 1949) là một nghệ sĩ nhân dân piano và nhà giáo nhân dân Việt Nam, từng là Giám đốc
**Âm nhạc Việt Nam** là hệ thống tác phẩm âm nhạc tại Việt Nam. Đây là một phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc Việt Nam phản ánh những nét đặc
**Hà Tây** là một tỉnh cũ thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam, từng tồn tại trong 2 giai đoạn: 1965–1976 và 1991–2008. Vào ngày 1 tháng 8 năm 2008, toàn bộ diện tích
**Há cảo** () là một món ăn có nguồn gốc từ huyện Thuận Đức, Quảng Đông, Trung Quốc. Món ăn này được dùng phổ biến trong các bữa ăn sáng, dimsum. Tên gọi _"Há cảo"_
_[[Chiếu dời đô_ – bản dịch của Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.|thế=]] nhỏ|330x330px|Một góc phố Hà Nội đêm 10 tháng 10 năm 2010 **Đại lễ 1000 năm Thăng Long – Hà
**Nữ vương Juliana** (_Juliana Louise Emma Marie Wilhelmina_; 30 tháng 4 năm 1909 – 20 tháng 3 năm 2004) là Nữ vương Hà Lan từ năm 1948 cho đến khi bà thoái vị năm 1980.
**Chiến dịch bình định Đài Loan của Hà Lan** là một chuỗi các hành động quân sự và ngoại giao do chính quyền thuộc địa Hà Lan tiến hành vào các năm 1635 và 1636
**Võ Thu Hà** (sinh năm ? tại Sài Gòn) là một nữ ca sĩ Việt Nam. ## Lịch sử Võ Thu Hà sinh năm ? tại Sài Gòn, nguyên quán tại Nam Định. Cô tốt
nhỏ|Phố Tạ Hiện **Khu phố cổ Hà Nội** là tên gọi thông thường của một khu vực đô thị có từ lâu đời của Hà Nội nằm ở ngoài hoàng thành Thăng Long. Khu đô
Bảng dưới đây liệt kê 118 bài hát chính được dùng cho vòng thi chung kết (gala) và đêm đăng quang của chương trình Thần tượng âm nhạc: Vietnam Idol, mùa thứ hai. Sau thành
**Phú Thượng** là một phường thuộc thành phố Hà Nội, Việt Nam. ## Địa lý Phường Phú Thượng có vị trí địa lý: * Phía Đông tiếp giáp các phường Hồng Hà, Tây Hồ (ranh
**Hà Quỳnh Như** (sinh ngày 3 tháng 9 năm 2004 tại Nghệ An) là một ca sĩ người Việt Nam, hát nhạc dân ca mang âm hưởng dân ca, dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh.
**Maria Christina, Vương nữ Hà Lan, Vương nữ của Oranje-Nassau, Nữ Thân vương xứ Lippe-Biesterfeld** (; sinh ngày 18 tháng 2 năm 1947 - 16 tháng 8 năm 2019) là con gái út của Nữ
Lalasea Bistro Hà Tiên - Điểm dừng chân tiếp theo trong hành trình khám phá của quý khách khi đến với vùng đất biên thùy Hà Tiên.Tọa lạc ngay cửa ngõ ra vào trung tâm
Lalasea Bistro Hà Tiên - Điểm dừng chân tiếp theo trong hành trình khám phá của quý khách khi đến với vùng đất biên thùy Hà Tiên.Tọa lạc ngay cửa ngõ ra vào trung tâm
Lalasea Bistro Hà Tiên - Điểm dừng chân tiếp theo trong hành trình khám phá của quý khách khi đến với vùng đất biên thùy Hà Tiên.Tọa lạc ngay cửa ngõ ra vào trung tâm
Tượng mẫu Hoàng Hà tại [[Lan Châu]] **Hoàng Hà** (tiếng Hán: 黃河; pinyin: _Huáng Hé_; Wade-Giles: _Hwang-ho_, " hoàng nghĩa là màu vàng của mặt trời, hà nghĩa là mặt bằng, ghép lại hoàn chỉnh
**Người Hà Lan** (tiếng Hà Lan: _Nederlanders_) là dân tộc chủ yếu ở Hà Lan . Họ chia sẻ một nền văn hóa chung và nói tiếng Hà Lan. Người Hà Lan, hoặc con cháu
**Lê Vĩnh Hà**, thường được biết đến với nghệ danh **Hà Lê** (sinh ngày 26 tháng 9 năm 1984), là một nam ca sĩ, nhạc sĩ, rapper, vũ công, biên đạo múa kiêm nhà sản
**_Vệ binh dải Ngân Hà_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Guardians of the Galaxy_** hay **_Guardians of the Galaxy Vol. 1_**) là một bộ phim điện ảnh lấy đề tài siêu anh hùng dựa trên một
"**Hà Nội 12 mùa hoa**" là một bài hát do nhạc sĩ Giáng Son sáng tác năm 2012. Ca khúc đã được Trung tâm Thúy Nga mua lại và nữ ca sĩ Thu Phương thể
**Âm nhạc thời Phục Hưng** là âm nhạc được viết tại Châu Âu trong thời kỳ Phục Hưng. Các nhà nhạc sử học – với những bất đồng đáng kể – đều thống nhất cho
nhỏ|Lưu vực Hải Hà **Đồng bằng Hải Hà** (, Hán Việt: Hải Hà bình nguyên) nằm ở phía bắc Trung Quốc do phù sa của Hải Hà bồi đắp, là một bộ phận của bình