✨Mào (động vật)

Mào (động vật)

nhỏ|phải|Một con [[gà trống với cái mồng lớn]] Mồng hay mào là phần thịt nằm trên đỉnh đầu gà có màu đỏ, đây là một cấu trúc cơ thể đặc trưng của một số loài điểu cầm trong bộ Gà (Galliformes) như gà rừng, gà nhà, gà tây, trĩ, chúng có phổ biến ở các giống gà nên được gọi là mồng gà hay mào gà. Cấu trúc của mồng là một tấm thịt mỏng, nhẵn nhụi, mềm, kéo dài từ gốc mỏ cho đến đỉnh đầu. Đỉnh mào thường bao gồm nhiều gai thường năm hay sáu gai hoặc chóp, trong đó, mồng gà trống to hơn mồng gà mái, nó là loại mồng phổ biến nhất và thường được thấy ở gà. Gà nhà có tên khoa học là Gallus gallus domesticus mà theo tiếng Latin, "gallus" nghĩa là mồng gà.

Chức năng

Mồng gà có công dụng giải nhiệt cho gà vì chúng không thể xuất mồ hôi để giải nhiệt, gà giải nhiệt bằng cách làm mát dòng máu chảy qua mồng và tích gà có thể giải nhiệt khi thời tiết nóng nực. Mồng lớn để hấp dẫn gà mái do gà có thể nhận biết màu sắc và thích màu đỏ. Mồng cũng thể hiện sức khỏe của gà. Nếu nó xuất hiện nhạt hay đậm hơn bình thường hoặc có vẻ nhăn nhúm hay xiêu vẹo, thì đó thường là dấu hiệu gà bị bệnh. Mồng tốt là dấu hiệu gà khỏe, mồng đỏ tươi ở gà mái tơ thường có nghĩa gà sắp đẻ trứng. Mồng được sử dụng vào mục đích từ thể hiện sức khỏe, độ sung mãn, chức năng giải nhiệt, và mang lại giá trị thẩm mỹ cho gà với một cái mồng to, đỏ tươi.

Các dạng

Có khá kiểu mồng gà và một giống gà có nhiều kiểu mồng, thường là màu đỏ, màu tím xuất hiện ở các giống như gà Sumatra, Modern Game (màu birchen và brown red) và gà ác (silkie), màu đỏ tím ở giống gà vảy cá (Seabright). Hiệp hội Gia cầm Mỹ (APA) công nhận hàng hoạt kiểu mồng bao gồm mồng vua (buttercup), mồng trích (cushion), mồng dâu (pea), mồng trà (rose), mồng lá (single), mồng đậu (strawberry), mồng chạc (V-shaped) và mồng óc (walnut). nhỏ|phải|Mồng lá nhỏ|phải|Mồng trà nhỏ|phải|Mồng dâu nhỏ|phải|Lông xù

  • Mồng lá hay mồng đơn (single): Tương đối mỏng, phần thịt nhẵn nhụi và mềm, gốc mồng kéo dài từ mỏ cho đến đỉnh đầu, phần trên cùng bao gồm từ 5 đến 6 gai mồng hay chóp, chóp chính giữa cao nhất so với các chóp phía trước hay sau, tạo thành hình nửa o-van khi nhìn tổng thể. Mồng phải luôn dựng thẳng, mồng gà trống to và dày hơn mồng gà mái, mồng gà mái có thể thẳng hay siêu vẹo tùy giống gà. Mồng được chia làm 3 phần: trước, giữa và sau hay lưỡi mồng, tức phần kéo dài ở sau đầu.
  • Mồng trà hay mồng hoa (rose): mồng đặc, rộng, gần như bằng phẳng trên nóc, ít thịt, phần cuối có chỏm kéo dài, mà nó có thể ngóc lên như ở giống Hamburg; gần như nằm ngang như ở giống gà Rosecomb, gà Leghorn, hay cong theo dáng đầu như ở giống gà Wyandotte. Mặt trên ở phần chính phải hơi phồng và lởm chởm những gai tròn nhỏ. Hình dáng thay đổi tùy giống gà. Mồng trà vốn được gọi là "mồng đôi" (double comb) để phân biệt với "mồng đơn" (single comb, tức mồng lá) của những giống gà khác.
  • Mồng dâu (pea): mồng thấp, độ dài trung bình, đỉnh đầu có ba khía, khía chính giữa hơi cao hơn hai bên, đỉnh khía hoặc trơn lỳ hoặc có gai nhỏ; đặc điểm này được tìm thấy ở các giống gà Ameraucana, gà Brahma, gà Buckeyes, gà Cornish, gà Cubalaya và gà Sumatra.
  • Mồng chạc (V-shaped): mồng có hai nhánh, giống như sừng nối với nhau ở gốc chẳng hạn như gà Houdan, gà Ba Lan (Polish), gà Crevecoeur, gà La Fleche và gà Sultan. Chiếc mào hình chữ V của gà La Flèche khiến chúng được mệnh danh là "đầu quỷ". Còn gà Ba Lan Đây là loài gà có chiếc mào khổng lồ, là một trong những giống gà đẹp nhất trong thế giới loài gà với chiếc mào khổng lồ này. Chúng có tính trội so với mồng vua.
  • Mồng trích (cushion): dạng mồng thấp, gọn và tương đối nhỏ, nó phải thật nhẵn nhụi, không lồi lõm hay có gai và không phát triển quá phần đỉnh đầu. Giống gà Chantecler có dạng mồng trích (cushion) hoàn hảo, rất thích hợp với xứ lạnh.
  • Mồng vua (buttercup): bao gồm một lưỡi mồng mọc từ giao điểm giữa đầu và mỏ, và hơi ngả về sau thành hình cái vương miện, nằm ngay chính giữa đỉnh đầu. Vành của vương miện được chia đều bởi các chóp và kết thúc ở phía sau. Chóp mọc từ giữa vương miện là lỗi. Chúng thuộc về một gien xuất hiện khi gà mang một alen trội
  • Mồng đậu hay mồng dâu (strawberry): dạng mồng thấp, gọn và tròn trĩnh, ngả nhiều về trước và phần sau không vượt quá giữa đỉnh đầu.
  • Mồng ác (silkie): gần như tròn, đôi khi phồng, chiều rộng lớn hơn chiều dài; đỉnh gấp nếp xen ngang bởi răng cưa nhỏ, lởm chởm ở phần trước và giữa mồng. Đôi khi, có hai hay ba chóp nhỏ phía sau bị mào che, đôi khi không có chóp nào. Nhìn chung, về mặt di truyền đây là kiểu mồng trà (rosecomb) kết hợp với mào (crest).
  • Mồng óc (walnut): dạng mồng đặc, tương đối rộng hình thành từ sự kết hợp của hai alen trội gồm alen mồng trà (R) và alen mồng dâu (P) với bề mặt gấp nếp trông giống như hạt óc chó (walnut).

Gà đá thường có các mồng, được gọi như sau:

  • Mồng dâu: Không nhỏ, không to, vừa chia làm ba cạnh, mồng này rất ngay, có nhiều đốm nhỏ.
  • Mồng lá: Mồng gà này to bản chỉ "thiên" nhìn cũng đẹp mắt, mồng gà bắt đầu từ mỏ, cao lần lần rồi chỉ thiên, hay chỉ về phía sau đuôi.
  • Mồng cốt: Mồng này có hai loại, giống như mồng con chim trích, khác là có lỗ "xoáy" nằm sát mỏ là tốt, nếu gặp gà mồng có xoáy trên đỉnh ót thì không chọn nuôi
  • Mồng trích: Mồng này giống như mồng chim trích, mồng chỉ thẳng lên trời là mồng tốt.
  • Mồng hoa sung: Mồng này nhăn nheo như một cánh hoa xếp lại thành nhiều cánh cho loại mồng nhỏ rất tốt.
  • Mồng voi: Còn có tên là mồng "tróc" có hình tam giác dựng đứng, thẳng đẹp mã hơn mồng hoa sung, mồng voi chỉ thẳng lên trời, mồng nhọn tăng thêm vẻ đẹp cho gà, người ta còn gọi là "mồng chỉ thiên".

Gà Việt Nam thường phân làm 4 dạng mồng chính bao gồm: mồng dâu, mồng trích, mồng trà và mồng lá. Do quá trình lai tuyển chọn, gà đòn hay gà nòi đòn hầu như chỉ có dạng mồng dâu, gà cựa hay gà nòi lông ngoài mồng dâu còn có thêm mồng lá nhờ lai với gà chọi Mỹ. Những dạng mồng khác như mồng trà, mồng trích, mồng vua là các dạng mồng của gà kiểng, gà thịt. Yêu cầu của mồng gà đá phải dựng đứng, thẳng gọn gàng, tránh tình trạng nghiêng về một bên, nếu có nghiêng thì nghiêng qua trái thì thuận hơn, nghiêng về bên nào cũng làm cản trở mắt gà khi ra đá, dễ sơ hở bị đốì thủ đá mù mắt, những con gà có mồng nghiêng ưa bị mờ mắt hay đui, hoặc mắt cũng bị yếu đi một bên.

Di truyền

nhỏ|phải|Mồng gà mái Mồng thường là đặc điểm để nhận dạng các giống gà khác nhau, như mồng vua là đặc điểm của giống gà Buttercup và mồng óc là đặc điểm độc đáo của giống gà ác (Silkie). Ở một số giống gà như gà Lơ-go (Leghorn) và gà Rhode Đỏ, có cả các biến thể mồng lá lẫn mồng trà. Hơn nữa, màu của mồng biến thiên từ đỏ tươi cho đến tím, cũng tùy vào mỗi giống gà. Mồng gà được quy định bởi hai cặp nhiễm sắc thể, bao gồm 4 alen: P: mồng dâu trội p: mồng dâu lặn R: mồng trà trội r: mồng trà lặn Gà con sẽ nhận: 2 alen từ gà bố và 2 alen từ gà mẹ: Lai mồng lá x mồng lá sẽ thu được 100% mồng lá. Lai mồng trà x mồng lá hoặc mồng trà x mồng trà thì sẽ thu được ít nhất 50% mồng trà (số còn lại là mồng lá). Lai mồng dâu x mồng lá hoặc mồng dâu x mồng dâu thì sẽ thu được ít nhất 50% mồng dâu (số còn lại là mồng lá). Lai mồng dâu x mồng trà sẽ thu được ít nhất 25% mồng trích. Lai mồng trích x mồng lá sẽ thu được ít nhất 25% mồng trích. Lai mồng trích x mồng dâu hoặc mồng trích x mồng trà sẽ thu được ít nhất 37,5% mồng trích. *Lai mồng trích x mồng trích sẽ thu được ít nhất 56,25% mồng trích.

Ở nhiều giống gà, việc phát hiện và loại bỏ gà trống RR không dễ dàng. Nếu lai với gà mái mồng lá (rr) mà cho ra 100% gà con mồng trà. Alen mồng dâu P ảnh hưởng đến kích thước của tích. Gà có hai alen PP thì tích nhỏ, mồng thấp bé, Pp: tích vừa, mồng cao; pp: tích to (tức bình thường), mồng to. Alen mồng dâu P cũng ảnh hưởng đến sụn lườn (breast ridge). Gà không có gien mồng dâu (pp) sẽ thiếu sụn hai bên lườn. Lai mồng trích với bất kỳ dạng mồng nào đều thu được một tỷ lệ mồng trích nhất định, lai mồng dâu với mồng trà cũng thu được mồng trích. Mồng trích có nhiều kiểu gien cần chọn là PP,Rr (tích nhỏ, sinh sản tốt).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Động vật nguyên sinh** (_Protozoa_-tiếng Hy Lạp _proto_=đầu tiên và _zoa_=động vật) là một thuật ngữ cổ gồm những sinh vật đơn bào (nguyên sinh vật-_Protista_trong giới khởi sinh) thuật ngữ này hiện không còn
nhỏ|phải|Con [[tê giác là thần thú huyền thoại trong truyền thuyết, chúng được ví như linh vật kỳ lân]] nhỏ|phải|Các loài [[côn trùng có vai trò thầm lặng nhưng thiếu yếu]] nhỏ|phải|Tôm hùm [[BBQ, trong
nhỏ|phải|Một con [[bò tót đực với sắc lông đen tuyền bóng lưỡng và cơ thể vạm vỡ. Màu sắc và thể vóc của nó cho thấy sự cường tráng, sung mãn của cá thể này,
Con [[Họ Muỗm|châu chấu đang ngụy trang]] Một con thằn lằn đang lẫn vào đất **Cách thức phòng vệ của động vật** hay việc **thích ứng chống động vật ăn thịt** (_Anti-predator adaptation_) là thuật
**Hệ động vật ở Việt Nam** là tổng thể các quần thể động vật bản địa sinh sống trong lãnh thổ Việt Nam hợp thành hệ động vật của nước này. Việt Nam là nước
**Sự lừa dối ở động vật** (_Deception_) là sự phơi bày, phô diễn những thông tin sai lệch của một con vật sang loài khác (có thể là cùng loài hoặc các loài khác nhau)
nhỏ|phải|Một sản phẩm mỡ động vật, mỡ lợn nhỏ|phải|Một sản phẩm mỡ ngỗng **Mỡ động vật** (_Animal fat_) hay gọi chung là **dầu mỡ từ động vật** là chất béo (lipid) kết xuất được có
nhỏ|phải|Biểu hiện tình cảm của khỉ mẹ đối với con mình **Tâm thần học động vật** là một môn khoa học nghiên cứu về tâm lý của các loài động vật trừ con người, thông
**Hệ động vật ở Úc** là các quần thể động vật bản địa hay du nhập tại lục địa Úc hợp thành hệ động vật tại đây. Úc là nơi có hệ động vật rất
nhỏ|phải|Một con thú lông nhím (Hemicentetes semispinosus) đang xù lông đầy vẻ đe dọa, thực tế chúng là loài vô hại và nhút nhát nhỏ|phải|Một con tắc kè phồng mang trông dữ tợn **Hành vi
**Danh mục sách đỏ động vật Việt Nam** bao gồm các loài động vật có trong Sách đỏ Việt Nam dưới các mức độ đe dọa khác nhau. Trong số đó là các loài động
nhỏ|phải|[[Nai sừng xám hay còn gọi là hươu Canada (Cervus _canadensis_), một trong những động vật ăn cỏ phổ biến trên các thảo nguyên đồng bằng ở Canada]] nhỏ|phải|Loài ếch xanh ở Canada **Hệ động
nhỏ|phải|Sơn dương Tây Kavkaz là một trong những biểu tượng của hệ động vật Azerbaijan nhỏ|phải|Loài [[sẻ ngô râu (Panurus biarmicus)]] **Hệ động vật Azerbaijan** (_Fauna of Azerbaijan_) hay **Vương quốc động vật ở Azerbaijan**
nhỏ|phải|Một con linh dương đang chạy nước rút **Sự di chuyển ở động vật** (_Animal locomotion_) là bất kỳ phương pháp nào mà động vật sử dụng để di chuyển từ nơi này sang nơi
nhỏ|phải|Thịt, có lẽ là một trong những sản phẩm động vật quan trọng bậc nhất đối với con người nhỏ|phải|Kho trữ thịt ở Luân Đôn **Sản phẩm động vật** hay còn gọi là **dẫn xuất
nhỏ|phải|Một con [[bò được trang điểm hoa văn ở Sisdağı, Thổ Nhĩ Kỳ, con bò được nhắc đến rất nhiều trong Kinh sách của đạo Hồi]] **Động vật trong Hồi giáo** là quan điểm, giáo
nhỏ|phải|[[Linh dương Eland (Taurotragus oryx), loài đặc hữu của thảo nguyên châu Phi]] nhỏ|phải|Sư tử châu Phi, vị vua của thảo nguyên châu Phi và là sinh vật biểu tượng của lục địa này **Hệ
**Hệ động vật của Châu Âu** là tất cả các loài động vật sinh sống ở châu Âu và các vùng biển và hải đảo xung quanh. Vì không có ranh giới địa lý sinh
nhỏ|phải|Một con sóc bản địa ở Singapore nhỏ|phải|Một con cóc hồng bản địa **Hệ động vật Singapore** là tổng thể các quần thể động vật hợp thành hệ động vật của đảo quốc này. Dù
nhỏ|phải|Khỉ đuôi sóc là loài chuyên ăn nấm **Động vật ăn nấm** (_Fungivore_ hoặc _mycophagy_) là một hành vi ăn uống của một nhóm động vật với đặc trưng là quá trình các sinh vật
**Vượn mào đen Hải Nam** (danh pháp khoa học: **_Nomascus hainanus_**) là một loài động vật có vú trong họ Hylobatidae, bộ Linh trưởng. Loài này được Thomas mô tả năm 1892. ## Đặc điểm
nhỏ|phải|Một con [[gà trống với cái mồng lớn]] **Mồng** hay **mào** là phần thịt nằm trên đỉnh đầu gà có màu đỏ, đây là một cấu trúc cơ thể đặc trưng của một số loài
**Mão** (chữ Hán: 卯) hay **Mẹo** là một trong số 12 chi của địa chi. Mão là địa chi thứ tư, đứng liền sau Dần và liền trước Thìn. ## Tính chất Mão mang ý
**Chào mào** (_Pycnonotus jocosus_) là một loài chim thuộc bộ Sẻ phân bố ở châu Á. Nó là một thành viên của họ Chào mào. Nó là một loài động vật ăn quả thường trú
**Đà điểu đầu mào** hay **Đà điểu Úc đội mũ**, **Đà điểu New Guinea** là một loài chim không biết bay thuộc chi **_Casuarius_**, bộ Casuariiformes. Chúng được phân loại là một loài chim chạy
**Đài bàng mào dài** (danh pháp hai phần: **_Lophaetus occipitalis_**) là một loài đại bàng nhỏ tới trung bình sống trên khắp châu Phi, trong khu vực hạ Sahara trừ phía tây nam châu Phi
**Tên gọi loài vật** (_Animal name_) chỉ về cách mà người ta gọi một loài động vật cụ thể. Đối với nhiều loài động vật, đặc biệt là những con đã được thuần hóa (động
**Họ Chim mào bắt rắn** (**Cariamidae**) là một họ chim nhỏ và cổ xưa, sinh sống tại khu vực nhiệt đới Nam Mỹ. Từng có thời chúng được coi là có quan hệ họ hàng
**Cò quăm mào Nhật Bản** (**_Nipponia nippon_**), tiếng Nhật gọi là , tên chữ Hán là **_chu lộ_** (朱鷺), tức "cò son đỏ", là một loài chim trong họ Họ Cò quăm (_Threskiornithidae_) và là
**Sa giông mào phương Bắc** (_Triturus cristatus_) là một loài sa giông của họ Salamandridae, được tìm thấy tại châu Âu và một phần châu Á. ## Phân bố thumb|left|Con đực Phạm vi phân bố
**Chim mào bắt rắn chân đen** (_Chunga burmeisteri_) là một loài chim trong Họ Chim mào bắt rắn (Cariamidae). Chúng được tìm thấy ở Argentina, Bolivia và Paraguay. Môi trường sống tự nhiên của chúng
**Chim mào bắt rắn chân đỏ** (_Cariama cristata_) là một loài chim thuộc họ Chim mào bắt rắn (Cariamidae). Chúng là các loài chim sinh sống trên đất liền và chủ yếu là đi lại
**Hải cẩu lông mao Nam Cực** (_Arctocephalus gazella_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được Peters mô tả năm 1875. Loài hải cẩu này phân bố
nhỏ|phải|Mùa nước nổi ở An Giang **Khu hệ cá nước ngọt ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long** hay còn gọi đơn giản là **cá miền Tây** là tập hợp các loài cá nước ngọt
**Dilophosauridae** (Khủng long mào kép) là một họ khủng long ăn thịt, từng phân bố rộng rãi. ## Từ nguyên Tên gọi khoa học của họ này bắt nguồn từ tên chi điển hình là
**Cookie** (30 tháng 6 năm 1933 - 27 tháng 8 năm 2016) là một cá thể vẹt mào Major Mitchell (_Lophochroa leadbeateri_) đực sống tại Vườn thú Brookfield, gần Chicago, Illinois, Hoa Kỳ. Nó được
**Chi Vượn mào**, tên khoa học **_Nomascus_** là một chi động vật có vú trong họ Hylobatidae, bộ Linh trưởng. Chi này được Miller miêu tả năm 1933. * _Nomascus gabriellae_ * _Nomascus hainanus_ *
**Vượn đen Đông Bắc** còn được biết đến là **Vượn Cao Vít** (danh pháp khoa học: **_Nomascus nasutus_**) là một loài vượn từng phân bố rộng rãi ở Trung Quốc và Việt Nam. Vượn đen
**Hải cẩu lông mao cận Nam Cực** (_Arctocephalus tropicalis_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được J. E. Gray mô tả năm 1872. ## Hình ảnh
**Hải cẩu mào** (_Cystophora cristata_) là một loài động vật có vú trong họ Hải cẩu thật sự, bộ Ăn thịt. Loài này được Erxleben mô tả năm 1777. Loài này chỉ sinh sống ở
**Hải cẩu lông mao Nam Mỹ** (_Arctocephalus australis_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được Zimmermann mô tả năm 1783. Hải cẩu lông thú Nam Mỹ
**Hải cẩu lông mao Galápagos** (_Arctocephalus galapagoensis_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được Heller mô tả năm 1904. Loài này sinh sống và sinh sản
**Sinh vật huyền thoại Trung Hoa** là những sinh vật (động vật) trong các câu chuyện thần thoại, truyền thuyết, huyền thoại và trong các tác phẩm văn học của Trung Hoa và có sự
**Hải cẩu lông mao Juan Fernández** (danh pháp khoa học: _Arctocephalus philippii_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được Peters mô tả năm 1866. Chúng chỉ
**Hải âu cổ rụt mào lông**, tên khoa học **_Fratercula cirrhata_**, là một loài chim trong họ Alcidae. Loài này được tìm thấy khắp Bắc Thái Bình Dương. ## Miêu tả nhỏ|trái|Bức họa năm 1895
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
nhỏ|[[Kim quy]] **Sinh vật huyền thoại Việt Nam** gồm các loài vật trong các câu chuyện thần thoại Việt Nam, trong truyền thuyết, câu chuyện cổ tích cho đến những câu chuyện dân gian, những
**Hải cẩu lông mao Guadalupe** (_Arctocephalus townsendi_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được Merriam mô tả năm 1897. Loài hải cẩu này suy giảm số
**Hải cẩu lông mao bắc Thái Bình Dương** (danh pháp hai phần: _Callorhinus ursinus_) là một loài động vật có vú trong họ Otariidae, bộ Ăn thịt. Loài này được Linnaeus mô tả năm 1758.
Cuốn sách với nhiều hình ảnh sinh động về các loài động vật gần gũi và quen thuộc mà bé bắt gặp hằng ngày hay những loài vật mà bé ít được biết đến như