✨Lễ Nguyên Đán Triều Nguyễn

Nguyên đán là một nghi lễ triều hội của triều Nguyễn, tổ chức vào ngày mồng một Tết với nghi thức thiết Đại triều ở điện Thái Hòa và thiết Thường triều ở điện Cần Chánh.

Nguyên đán là một nghi lễ triều hội của triều Nguyễn, tổ chức vào ngày mồng một Tết với nghi thức thiết Đại triều ở điện Thái Hòa và thiết Thường triều ở điện Cần Chánh.Vào thời nhà Nguyễn (1802 - 1945), Nguyên đán là một nghi lễ triều hội của triều Nguyễn, tổ chức vào ngày mùng một Tết với nghi thức thiết đại triều ở điện Thái Hòa và thiết thường triều ở điện Cần Chánh.Theo sử liệu, để chuẩn bị cho lễ Nguyên đán, Bộ Lễ chuẩn bị các nghi vệ, tự khí đặt ở đại triều ở điện Thái Hòa, đặt ở thường triều ở điện Cần Chánh. Chương trình thực cảnh được tái hiện với sự tham gia diễn xuất từ đội ngũ chủ chốt những nghệ sĩ của Nhà hát Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế. Các vai được thể hiện như quan văn quan võ, thân công hoàng tử, quan truyền chỉ, quan Bộ Lễ cùng đông đảo đại thần, triều thần...

Khởi đầu chương trình, nhà vua xa giá từ điện Cần Chánh, ra Đại Cung Môn và lên điện Thái Hòa để thân hành chứng lễ... Trong buổi lễ, các quan sẽ dâng biểu chúc mừng nhà vua. Các quan truyền chỉ ban ân của vua trong dịp Nguyên đán với các nghi thức trang nghiêm gắn với các tiết mục đại nhạc, tiểu nhạc.

Phần thứ hai, nhà vua rời khỏi điện Thái Hòa về lại điện Cần Chánh để tiếp tục các nghi thức Nguyên đán. Tại đây, các hoàng đệ và hoàng tử nhỏ tuổi, thân công, hoàng tử sẽ lạy mừng vua. Tiếp đó là phần tuyên chỉ ban yến tiệc và thưởng xuân của nhà vua. Cuối cùng là các cuộc yến tiệc do vua ban sẽ diễn ra ở điện Cần Chánh và Tả Vu, Hữu Vu, Tả Đãi Lậu Viện, Hữu Đãi Lậu Viện.Nhằm tôn vinh vẻ đẹp của di sản Huế, đồng thời giới thiệu về những nét đẹp truyền thống gắn với Tết cung đình thuở xưa, trên hết là tinh thần nhân văn của tiền nhân, năm 2021, lần đầu tiên, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã tổ chức lễ Nguyên đán thời nhà Nguyễn và được tái hiện dưới hình thức sân khấu hóa thực cảnh bằng thủ pháp đồng hiện.

Cụ thể, toàn bộ 2 nội dung của cả 2 lễ đều được dàn dựng tại 1 địa điểm là điện Thái Hòa, vừa phù hợp với thực tế (vì không còn điện Cần Chánh); vừa phù hợp với việc phục vụ du lịch (tái hiện này không phục dựng, phục hồi lễ Nguyên đán một cách nguyên bản vì nhiều điều kiện không cho phép cũng như không phù hợp yêu cầu thực tế).

Vì vậy, yếu tố dẫn chuyện có ý nghĩa vừa nối kết, vừa thuyết minh, diễn giải và dẫn dắt nội dung để định hướng cho người thưởng lãm.

Đáng chú ý, kịch bản được dàn dựng có lồng ghép những yếu tố “thời sự” như lời nhắc nhở quần thần, dân chúng cùng nhau vượt qua khó khăn, như lời truyền chỉ vua ban: “Trẫm từ ngày nối nghiệp, nhận lấy mệnh trời; noi đức Hoàng khảo/ Việc Cần Chánh lo liệu hết lòng/ Việc trọng nông chuyên tâm hết mực/ Đã định lệ Ban Sóc, đã khuôn phép tịch điền/ Mà năm qua bão lũ liên miên/ Lại còn thêm họa mầm dịch bệnh/ Đã yên ủi tỉnh thành gặp thiên tai lũ lụt/ Đã ủy lạo mở kho lương cứu đói dân tình... Thu rũ đông tàn khép lại cùng năm cũ/ Xuân sang Tết đến mở sáng cõi đất trời”.Bài viết được trích dẫn từ:

  • Nguồn: Trang thông tin điện tử tổng hợp khám phá Huế

Xem chi tiết bài viết gốc ở đường link bên dưới...

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Link
https://hue360.com.vn/BcH14851Ed3aB7D

Nguyên đán là một nghi lễ triều hội của triều Nguyễn, tổ chức vào ngày mồng một Tết với nghi thức thiết Đại triều ở điện Thái Hòa và thiết Thường triều ở điện Cần
**Giuse Nguyễn Chí Linh** (sinh ngày 22 tháng 11 năm 1949) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, ông từng đảm trách vai trò Tổng giám mục Tổng giáo phận Huế và
Khác với không khí Tết cổ truyền trong nhân gian, Tết trong Hoàng cung được tổ chức rất long trọng với nhiều nghi lễ như: Lễ Ban Sóc, lễ Tiến Xuân, lễ Tế Giao. Cuốn
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Nội chiến Lê – Mạc** (1533–1677) là cuộc nội chiến giữa nhà Mạc và nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam. Phe chống nhà Mạc về sau khi chép sử có gọi đây là
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
**Lê Thái Tổ** (chữ Hán: 黎太祖 10 tháng 9 năm 1385 – 5 tháng 10 năm 1433), tên thật là **Lê Lợi** (黎利) là một nhà chính trị, nhà lãnh đạo quân sự, người đã
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
phải|Lãnh thổ Việt Nam thời nhà Lê sơ ([[1428-1527).]] **Nhà Lê sơ** (chữ Nôm: 茹黎初 chữ Hán: 黎初朝, Hán Việt: _Lê sơ triều_) là giai đoạn đầu của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê.
phải|Bản đồ các [[quốc gia theo mật độ dân số, trên kilômét vuông. (Xem _Danh sách quốc gia theo mật độ dân số._)]] phải|Các vùng có mật độ dân số cao, tính toán năm 1994.
**Lê Chiêu Tông** (chữ Hán: 黎昭宗 18 tháng 11 năm 1506 – 19 tháng 1 năm 1527), tên thật là **Lê Y** (黎椅), là vị hoàng đế thứ 10 của Hoàng triều Lê nước Đại
**Chúa Nguyễn** (chữ Nôm: ; chữ Hán: / **Nguyễn vương**) (1558-1777, 1780-1802) là tên gọi dùng để chỉ người đứng đầu, cai trị xứ Đàng Trong, tức dải đất từ Thuận Hóa (phía nam đèo
**Nguyễn Hoàng** (chữ Hán: 阮潢; 28 tháng 8 năm 1525 – 20 tháng 7 năm 1613) hay **Nguyễn Thái Tổ**, **Chúa Tiên**, **Quốc chúa** là vị Chúa Nguyễn đầu tiên, người đặt nền móng cho
**Nam Bắc triều** (, 420-589) là một giai đoạn trong lịch sử Trung Quốc, bắt đầu từ năm 420 khi Lưu Dụ soán Đông Tấn mà lập nên Lưu Tống, kéo dài đến năm 589
**Nhà Nguyên** (tiếng Trung: 元朝, bính âm: _Yuán Cháo_, Hán-Việt: _Nguyên triều_) hay **Đại Nguyên** (Tiếng Trung: 大元, bính âm: _Dà Yuán_) là nhà nước kế tục của Đế quốc Mông Cổ và đánh dấu
**Đàn Nam Giao triều Nguyễn** (tiếng Hán: 阮朝南郊壇) là nơi các vua nhà Nguyễn tổ chức lễ tế trời đất vào mùa xuân hàng năm, thuộc địa phận phường Trường An, quận Thuận Hóa, thành
**Lê Thái Tông** (chữ Hán: 黎太宗 22 tháng 12 năm 1423 – 7 tháng 9 năm 1442), tên húy **Lê Nguyên Long** (黎元龍), là vị hoàng đế thứ hai của hoàng triều Lê nước Đại
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
phải|Bản đồ ấn hành năm 1829 ở Pháp vẽ biên cương nước Việt Nam bao gồm cả Cao Miên và Lào **Ngoại giao Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh những hoạt động ngoại giao giữa
Vua [[Bảo Đại ngồi trong ngự liễn (kiệu) trên đường tới Đàn Nam Giao làm lễ tế năm 1942]] **Lễ tế giao** (chữ Hán: / ), thường gọi **lễ tế Nam Giao** (chữ Hán: ),
thumb|Mỹ Lương Công chúa, húy là [[Nguyễn Phúc Tốn Tùy|Tốn Tùy - chị gái Vua Thành Thái, và hai nữ hầu.]] **Hậu cung nhà Nguyễn** là quy định và trật tự của hậu cung dưới
**Thái Nguyên** là một tỉnh thuộc vùng Đông Bắc Bộ, Việt Nam. Trung tâm hành chính của tỉnh là phường Phan Đình Phùng, cách trung tâm Hà Nội khoảng 70 km. Năm 2025, hai tỉnh Thái
**Nguyễn Kim** (chữ Hán: 阮淦, 1468–1545), là một nhà chính trị và quân sự giai đoạn Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông được xem là người lãnh đạo trên thực tế của
nhỏ|phải|Tượng Chưởng Trung Quân Nguyễn Văn Thành được tôn trí thờ sau 1868 tại một ngôi miếu cận Đại Nội Huế**Nguyễn Văn Thành** (chữ Hán: 阮文誠; 1758–1817) thiếu thời đã theo cha chinh chiến, về
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Lê Duẩn** (7 tháng 4 năm 1907 – 10 tháng 7 năm 1986) là một chính trị gia người Việt Nam, Bí thư Thứ nhất Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1960 đến năm
:_Bài này về lịch sử của Triều Tiên cho tới cuộc phân chia Triều Tiên vào ở cuối thập niên 1940. Xem thêm Lịch sử Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Lịch
**Triệu Vũ Đế** (chữ Hán: 趙武帝, 257 TCN hoặc 235 TCN - 137 TCN), húy **Triệu Đà** (chữ Hán: 趙佗), là vị vua đầu tiên của nước Nam Việt và nhà Triệu, án ngữ tại
**Anh Duệ Hoàng thái tử** (chữ Hán: 英睿皇太子, 6 tháng 4 năm 1780 - 20 tháng 3 năm 1801), tên thật là **Nguyễn Phúc Cảnh** (阮福景), tục gọi là **Hoàng tử Cảnh** (皇子景), **Đông cung
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên** (), gọi ngắn là **Triều Tiên** (, MR: Chosŏn) hay **Bắc Triều Tiên** (, MR: Puk-chosŏn) là một quốc gia ở Đông Á, tạo thành nửa phía
**Nguyễn Thị Lộ** (chữ Hán: 阮氏路; 1400 (?) – 1442), là một nữ quan triều Lê sơ và là người vợ lẽ của Nguyễn Trãi, một danh nhân nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam.
**Lê Đại Cương** (chữ Hán: 黎大綱, 1771 - 1847) còn gọi là **Lê Đại Cang**, tự **Thống Thiện**, hiệu **Kỳ Phong**. Ông là một vị quan nổi tiếng tài năng, trung chính thời Nguyễn, trải
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
thumb|Nhạc công chơi đàn tỳ bà trong một buổi hoà nhạc ở Quảng Châu. **Đàn tỳ bà** (chữ Hán: 琵琶; bính âm: pípá, romaji: biwa, tiếng Hàn: bipa) là một nhạc cụ dây gảy của
Dân cư sinh sống có tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện tương đối sớm so với trên thế giới, tuy nhiên việc hình thành nhà nước chuyên chế lại tương đối muộn
thumb| 7 tiền Phi Long, tiền thưởng bằng bạc được đúc vào năm 1833, niên hiệu [[Minh Mạng thứ 14, mặt trước là hình rồng 5 móng lượn hình chữ S, với đường kính 41
thumb|Tùng Thiện vương [[Nguyễn Phúc Miên Thẩm.]] Triều đại nhà Nguyễn đã thiết lập quy chế cụ thể về tước hiệu cùng đãi ngộ cho các thành viên thuộc hoàng tộc (họ Nguyễn Phúc cùng
**Trung Hoa Dân Quốc** () là một chính thể tiếp nối sau triều đình nhà Thanh năm 1912, chấm dứt hơn 2000 năm phong kiến Trung Quốc. Đây là chính thể cộng hòa hiện đại
**Lê Tương Dực** (chữ Hán: 黎襄翼; 16 tháng 7 năm 1495 – 8 tháng 5 năm 1516) tên thật là **Lê Oanh** (黎瀠), là vị hoàng đế thứ chín của Hoàng triều Lê sơ nước
**Lê Quý Đôn** (chữ Hán: 黎貴惇, 2 tháng 8 năm 1726 – 11 tháng 6 năm 1784), tên lúc nhỏ là **Lê Danh Phương**, tự **Doãn Hậu** (允厚), hiệu **Quế Đường** (桂堂), là vị quan
**Cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi**, hay còn được gọi là: **cuộc binh biến của Lê Văn Khôi**, **khởi nghĩa của Lê Văn Khôi**, **sự biến thành Phiên An**, là một cuộc nổi dậy
**Cuộc nổi dậy Lê Duy Lương** (khởi phát: 1832, kết thúc: 1837 hoặc 1838) là cuộc nổi dậy của đa số người Mường ở Hòa Bình và Thanh Hóa dưới sự lãnh đạo của con
**Nguyễn Cảnh Hoan** (阮景節 1521-1576) là tướng nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, có tài liệu chép là Nguyễn Cảnh Mô, Trịnh Mô, Nguyễn Hoan tước Tấn Quận công, giữ chức Binh
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
nhỏ|318x318px|Hành chính Việt Nam thời Lê Sơ **Hành chính Đại Việt thời Lê sơ**, đặc biệt là sau những cải cách của Lê Thánh Tông, hoàn chỉnh hơn so với thời Lý và thời Trần,
**Triệu Phong** là một huyện ven biển thuộc tỉnh Quảng Trị, Việt Nam. ## Địa lý ### Vị trí địa lý Huyện nằm về phía Đông Nam của tỉnh và trãi ngang như một tấm
**Kinh tế Việt Nam thời nhà Nguyễn** phản _ánh kết quả hoạt động của các_ ngành nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại Việt Nam dưới sự cai trị của nhà Nguyễn thời kỳ
**Triều đại trong lịch sử Trung Quốc**, hay **triều đại Trung Quốc**, ý chỉ các chế độ quân chủ thế tập cai trị Trung Quốc trong phần lớn chiều dài lịch sử nước này. Kể
**Nông nghiệp Việt Nam thời Nguyễn** phản ánh chính sách ruộng đất và kết quả hoạt động nông nghiệp của Việt Nam dưới thời nhà Nguyễn khi còn độc lập, từ năm 1802 đến 1884.