✨Kuge

Kuge

thumb|Kuge Nhật Bản (người cao quý) **** là một tầng lớp quý tộc Nhật Bản có vai trò nắm giữ các chức vị trong triều đình Nhật Bản ở Kyoto. Kuge trở nên quan trọng khi Kyoto được đặt là thủ đô trong thời kỳ Heian vào cuối thế kỷ thứ 8, cho đến khi Mạc phủ Kamakura nổi lên vào thế kỷ 12, thời điểm mà họ bị che khuất bởi tầng lớp bushi. Kuge vẫn duy trì một triều đình yếu ớt xung quanh Thiên hoàng cho tới Minh Trị Duy tân, khi sáp nhập với các daimyo, lấy lại một vài quyền lợi cho giai cấp, và cấu thành nên kazoku (tầng lớp quý tộc mới giống với peerage ở phương Tây), kéo dài cho đến ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945), khi hệ thống quý tộc Nhật Bản bị bãi bỏ. Mặc dù không còn quyền hạn chính thức, các thành viên của các gia đình kuge vẫn có ảnh hưởng trong xã hội, chính phủ và ngành công nghiệp Nhật Bản.

Lịch sử

Kuge (từ tiếng Trung Trung cổ kuwng-kæ 公家, nghĩa đen "hoàng gia") ban đầu dùng để mô tả Thiên hoàng và triều đình của ông. Nghĩa của từ này thay đổi theo thời gian để chỉ các triều thần. Trong thời kỳ Heian, sự hòa hảo và ổn định trong các mối quan hệ mang lại tự do cho tầng lớp quý tộc trong việc theo đuổi niềm yêu thích nghệ thuật, và kuge trở thành những người lãnh đạo và nhà hảo tâm cho các bộ môn nghệ thuật và văn hóa ở Nhật Bản. Hầu hết các Kuge cư trú tại thủ đô Kyoto.

Sau đó, trong thời kỳ Kamakura (1185-1333), kuge bắt đầu mang nét nghĩa đối lập với __ (gia đình chiến binh), những người là samurai, mà đã thề trung thành với Mạc phủ. Ở thời điểm này, kuge bắt đầu được dùng để mô tả những người làm trong triều đình; cả người ở đẳng cấp cao thuộc dòng dõi quý tộc và thường dân.

Hai tầng lớp cấu thành nên kuge: quý tộc hoặc , những người được ngồi cùng trong điện với Thiên hoàng; và , những người không được phép ngồi cùng Thiên hoàng. Mặc dù kuge bao gồm hai tầng lớp đó, nghĩa chính của từ này vẫn là để chỉ dōjō, các quý tộc.

Các quan có cấp bậc cao nhất trong triều đình được gọi là __, và quyền ứng cử bị giới hạn cho các thành viên tầng lớp dōjō của kuge. Trong thời kỳ Edo, có khoảng 130 gia đình dōjō của kuge. Các thành viên nổi bật nhất của kuge đã trở thành các nhiếp chính cho Thiên hoàng (sesshō hoặc kampaku). Chức vụ daijō-kan bị hạn chế cho các thành viên của Gia tộc Fujiwara.

Mặc dù mất hết quyền lực chính trị, họ vẫn duy trì văn hóa triều đình và duy trì một ảnh hưởng về mặt văn hóa. Đặc biệt, sau giai đoạn Sengoku, kuge mất hầu hết nền tảng tài chính và không còn ở vị thế người bảo trợ về mặt văn hóa, nhưng họ vẫn có nền tảng kiến thức bậc thầy về những lĩnh vực cụ thể như viết waka và chơi nhạc cụ như đàn biwa, và họ có những học trò xuất thân từ daimyo và thỉnh thoảng là các thường dân giàu có. Là bậc thầy của một lĩnh vực nhất định, kuge cấp cho các môn đệ nhiều chứng nhận đảm bảo rằng học trò đó đã học tập một lĩnh vực nhất định, và cho phép họ biểu diễn trước công chúng, hoặc thỉnh thoảng là dạy lại những người khác. Các môn đệ được đoán là sẽ trả cho sư phụ của họ một khoản phí cho mỗi lần cấp chứng nhận. Trong thời kỳ Edo, đây là một nguồn thu nhập quan trọng cho kuge.

Năm 1869, trong Minh Trị Duy tân, kuge được sáp nhập với daimyo để tạo thành một nhóm quý tộc đơn nhất, các __.

Những người có liên quan đến kuge bao gồm các tăng nhân Phật giáo, người bảo trợ văn hóa ở Kyoto, geisha và diễn viên.

Phân loại

Trong thế kỷ 12, những sự khác biệt theo lệ được đặt ra giữa các dōjō, phân tách kuge thành các nhóm theo các chức vụ ở triều đình. Những phân loại này xác định chức vụ cao nhất mà họ có thể được chỉ định. Các phân nhóm là: : có thể được bổ nhiệm làm sesshō và kampaku: Đây là tầng lớp cao nhất của kuge. Chỉ có năm gia đình thuộc tầng lớp này, tất cả đều là hậu duệ của Fujiwara no Michinaga. : có thể được bổ nhiệm làm daijin (đại thần), bao gồm daijō-daijin (Thái Chính Đại thần), người đứng đầu bốn đại thần trong triều đình. Họ là hậu duệ của Gia tộc Fujiwara hoặc Gia tộc Minamoto, những hậu duệ của Thiên hoàng. : có thể được bổ nhiệm làm naidaijin, nếu chức vụ này bỏ trống. Trong thực tế, chức vụ cao nhất mà thông thường họ đạt được là dainagon. : là một tầng lớp quân sự; họ có thể được bổ nhiệm làm dainagon hoặc hiếm hoi được làm naidaijin. : là một tầng lớp thường dân; họ có thể được bổ nhiệm làm dainagon. : là tầng lớp thấp nhất trong các dōjō, được tạo ra vào cuối thời kỳ Sengoku. Họ chỉ có thể được bổ nhiệm các vị trí thấp hơn sangi hoặc chūnagon. *: Tầng lớp này không phải là một phần của tất cả các tầng lớp bên trên. Quyền lợi của họ thấp hơn của Hanke và họ có thể không ở tại các địa điểm quan trọng trong kinh thành. Họ tới từ các ngành nghề kinh doanh khác trong kinh thành như các nhà hàng hay dịch vụ vệ sinh. Giống như các tầng lớp Kuge khác, vị trí và thứ bậc của họ trong triều đình được thừa hường qua các đời. Hầu hết các kuge thuộc tầng lớp cao nhất đều đến từ Gia tộc Fujiwara và Gia tộc Minamoto, nhưng vẫn còn có những gia tộc khác như Gia tộc Sugawara, Gia tộc Kiyohara và Gia tộc Ōe.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Kuge Nhật Bản (người cao quý) **** là một tầng lớp quý tộc Nhật Bản có vai trò nắm giữ các chức vị trong triều đình Nhật Bản ở Kyoto. _Kuge_ trở nên quan trọng
là một vị thân vương và công khanh (_kuge_) phụng sự triều đình của Thiên hoàng Shōmu và Nữ Thiên hoàng Kōken. ## Tiểu sử Nhà Tachibana được xem là thuộc về hoàng tộc vì
**Gia tộc Minamoto** (**源** / みなもと) là một dòng họ Hoàng tộc đặc biệt danh giá của người Nhật, được Thiên hoàng ban cho những người con và cháu thuộc Hoàng tộc không được kế
là một gia tộc hùng mạnh thuộc vùng Tohoku của Nhật Bản trong thời kỳ Heian, được thành lập bởi Hoàng tử Toneri, con trai của Thiên hoàng Tenmu (631–686). Kiyohara no Fusanori (sống ở
**Mạc phủ Tokugawa** (Tiếng Nhật: 徳川幕府, _Tokugawa bakufu_; Hán Việt: _Đức Xuyên Mạc phủ_), hay còn gọi là **Mạc phủ Edo** (江戸幕府, _Giang Hộ Mạc phủ_), là chính quyền Mạc phủ ở Nhật Bản do
nhỏ|[[Shimazu Nariakira, daimyo của lãnh địa Satsuma, trong bức hình chụp đage của Ichiki Shirō]] () là những lãnh chúa phong kiến từ thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 19 ở Nhật Bản thần
**Fujiwara no Yoritsune** (tiếng Nhật: 藤原 頼経, 12 tháng 2 năm 1218 — 1 tháng 9 năm 1256) hay còn gọi là **Kujō Yoritsune** (九条 頼経), là shogun thứ tư của Mạc phủ Kamakura ở
Đây là một danh sách các** gia tộc** của **Nhật Bản**. Các gia tộc cổ đại (gozoku) đề cập đến trong _Nihonshoki_ và _Kojiki_ bị mất quyền lực chính trị của họ vào trước thời
phải|nhỏ|370x370px| Fujiwara no Hidesato được miêu tả trong một bản vẽ năm 1890 bởi [[Tsukioka Yoshitoshi|Yoshitoshi.]] , là một _kuge_ (quý tộc) sống vào thế kỷ 10, thuộc thời kỳ Heian trong lịch sử Nhật
là một samurai và công khanh thời Nara. Năm 738, ông được phong làm . Azumabito bị đày đến Mishima ở tỉnh Izu vì bị liên lụy trong vụ dấy loạn của Fujiwara no Hirotsugu
là một samurai và công khanh thời Nara. Con của . Năm 724, ông tháp tùng Fujiwara no Umakai thảo phạt dân Emishi vùng Mutsu. Azumabito sau được triều đình bổ nhiệm vào các chức
**Không hoa** (zh. _kōnghuá_ 空華, ja. _kūge_), là "hoa trên không trung". Hoa hư huyễn, hoa đốm trong mắt, được nhìn thấy trên bầu trời như là kết quả của sự rối loạn thị giác.
, là thành phố thủ phủ của phủ Kyōto, Nhật Bản. Thành phố có dân số gần 1,47 triệu người vào năm 2018 và là một phần chính của vùng đô thị Kansai. Năm 794,
là các quý tộc cha truyền con nối ở Đế quốc Nhật Bản tồn tại từ năm 1869 đến năm 1947. phải|Nội sảnh Câu lạc bộ Quý tộc, Tokyo 1912 ## Nguồn gốc Sau cuộc
nhỏ|Gia huy của [[Gia tộc Tokugawa]] là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shōgun (Tướng Quân) đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa,
, còn gọi là **thời kỳ Tokugawa** (徳川時代 _Tokugawa-jidai_, "Đức Xuyên thời đại’’), là một giai đoạn trong lịch sử Nhật Bản từ năm 1603 đến năm 1868. Thời kỳ này đánh dấu bằng sự
, con trai của nhiếp chính quan Taneie, là một kuge của Nhật Bản. Cuộc đời ông trải dài từ thời đại Sengoku, thời đại Azuchi-Momoyama, đến đầu thời đại Edo. Ông làm chức Kampaku-Sadaijin
, một tên tiếng Nhật của nam, tương đương với _John Smith_ trong tiếng Anh. _Jane Smith_ tương đương sẽ là . hiện đại thường bao gồm phần đứng trước, phần đứng sau. Thứ tự
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**_Okikaze_** (tiếng Nhật: 沖風) là một tàu khu trục thuộc lớp _Minekaze_ được chế tạo cho Hải quân Đế quốc Nhật Bản ngay sau khi kết thúc Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Chúng là
, là một chức quan trong hệ thống "luật lệnh" (_ritsuryo_) trong thời phong kiến Nhật Bản. Chức vụ này được tạo ra năm 702 theo Thái Bảo luật lệnh và hình thành từ một
Tử tước **Machijiri Kazumoto** (tiếng Nhật; 町尻 量基, sinh ngày 30 tháng 3 năm 1888 - mất ngày 10 tháng 12 năm 1950) là trung tướng quân đội Đế quốc Nhật Bản. ## Tiểu sử
**Watanabe** (渡辺, âm Hán Việt: _Độ Biên_, nghĩa là "bên bến đò") là một họ phổ biến thứ năm ở Nhật Bản. Người đầu tiên được đặt tên watanabe là _kuge_ (những nhà quý tộc
, còn được gọi là Biến loạn Emi, là một cuộc đối đầu quân sự vào thời kỳ Nara trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và cuối cùng phải chuốc lấy thất bại do
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Chiến tranh Genkō** (元弘の乱, _Genkō no Ran_) là một cuộc nội chiến xảy ra vào cuối thời kỳ Kamakura, do Thiên hoàng Go-Daigo khởi xướng nhằm lật đổ Mạc phủ Kamakura. Cuộc nội chiến diễn
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:5jo1.gif|phải|nhỏ|357x357px|Năm điều ngự thệ (bản Nhật chí [[Thái chính quan)]] là năm nguyên tắc duy tân Nhật Bản của Thiên hoàng Minh Trị, được công bố vào ngày 6 tháng 4 năm 1868 tại Hoàng
là Thiên hoàng thứ 108 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều Go-Mizunoo kéo dài từ năm 1611 đến năm 1629. ## Phả hệ Trước khi Go-Mizunoo lên ngôi Thiên hoàng,
**Thiên hoàng Momozono** ( 14 tháng 4 năm 1741 - 31 tháng 8 năm 1762) là Thiên hoàng thứ 116 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống. Triều Momozono kéo dài từ
**Nữ quan** (chữ Hán: 女官), hay còn gọi **Nội quan** (内官), **Cung quan** (宮官) hoặc **Sĩ nữ** (仕女), là những từ hay dùng để gọi các cung nữ cao cấp có phẩm trật cùng địa
là Thiên hoàng thứ 59 của Nhật Bản theo danh sách kế thừa truyền thống Triều đại của Vũ Đa kéo dài từ năm 887 đến năm 897 ## Tường thuật truyền thống Trước khi
**USS _Sproston_ (DD-577/DDE-577)** là một tàu khu trục lớp _Fletcher_ được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Mỹ
**Chính phủ Nhật Bản** là chế độ quân chủ lập hiến kết hợp với dân chủ đại nghị, nghĩa là quyền hành Thiên hoàng bị hạn chế và chủ yếu quan hệ với nhiệm vụ
, tước hiệu thuở nhỏ là , là con gái thứ ba của Thiên hoàng Chiêu Hòa và Hương Thuần Hoàng hậu. Bà là chị gái của Thượng hoàng Akihito. Bà kết hôn với Toshimichi
là con trai của Nijo Harutaka, là một _Kuge_ thời kỳ Edo (1603-1868). Ông được anh trai là Suketsugu nhận làm con nuôi. Ông giữ một vị trí nhiếp chính kampaku từ năm 1856 đến
là con trai của quan nhiếp chính Kujo Hisatada và con trai nuôi của anh trai mình, Kujo Yukitsune, là một vị _Kuge_ cuối thời kỳ Edo và hoạt động chính trị vào những năm
Hình:Imperial Seal of Japan.svg là tên chung cho bốn chi của Hoàng thất Nhật Bản, cho đến năm 1947 có quyền cung cấp người kế vị cho ngai vàng hoa cúc nếu dòng chính không
là một học giả và nhà ngoại giao Nhật Bản thời Asuka. Gia tộc Takamuko chính là hậu duệ của Tào Phi. Kuromaro đi sứ sang nhà Tùy cùng Ono no Imoko với tư cách
là công khanh (_kuge_), triều thần, và chính khách thời Nara. Ông là con trai của _sadaijin_ (Tả đại thần) Tachibana no Moroe và là tộc trưởng thứ hai của gia tộc Tachibana. Ông được