✨Daimyō

Daimyō

nhỏ|[[Shimazu Nariakira, daimyo của lãnh địa Satsuma, trong bức hình chụp đage của Ichiki Shirō]] () là những lãnh chúa phong kiến từ thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 19 ở Nhật Bản thần phục Tướng quân. Từ "thủ hộ" vào thời Muromachi qua thời Sengoku cho đến các đại danh của thời Edo, tước hiệu này đã có một lịch sử lâu dài và đa dạng. Từ Daimyo đôi khi cũng được dùng để chỉ những người đứng đầu các gia tộc, cũng được gọi là lãnh chúa. Thông thường, mặc dù không phải dành riêng cho vị trí này, là từ các lãnh chúa mà Tướng quân phát sinh hay Nhiếp chính quan được chọn.

Daimyo thường mặc đồ màu tím, từ đậm đến nhạt tùy theo thứ bậc của họ, tím sẫm hay nhạt ở trước xanh sậm và nhạt, đỏ sậm và nhạt, và cuối cùng là đen, những daimyo cao quý nhất được coi là quý tộc.

Shugo daimyo

là nhóm người đầu tiên được phong tước hiệu "daimyo". Họ đi lên từ các "shugo" trong thời Muromachi. Shugo daimyo nắm cả binh quyền, quyền lực chính trị, và cả kinh tế trong một tỉnh. Họ tích lũy sức mạnh trong những thập kỷ đầu tiên của thời đại Muromachi.

Daimyo [[Matsudaira Katamori thăm tư dinh của một thuộc hạ. Hình nộm trong tòa nhà Aizuwakamatsu]] Shugo daimyo lớn bắt nguồn từ các gia tộc Shiba, Hatakeyama, và gia tộc Hosokawa, cũng như các gia tộc tozama của gia tộc Yamana, gia tộc Ōuchi và gia tộc Akamatsu. Những người mạnh nhất làm chủ đến vài tỉnh.

Mạc phủ Ashikaga yêu cầu các shugo daimyo sống ở Kyoto, do đó họ cử một người thân hay thuộc hạ, gọi là "shugodai", đại diện cho họ ở tỉnh nhà. Cuối cùng, một vài người trong số đó lại đến Kyoto ở, bổ nhiệm các cấp phó ở lại các tỉnh.

Chiến tranh Ōnin là cuộc bạo loạn lớn mà các shugo daimyo đánh giết lẫn nhau. Trong suốt thời gian của cuộc chiến, kuni ikki, hay nổi dậy tại các tỉnh, diễn ra vì các chiến binh hùng mạnh ở địa phương muốn độc lập với các shugo daimyo. Những người đại diên của các shugo daimyo, sinh sống ở các tỉnh, nắm lấy cơ hội này để củng cố địa vị của mình. Cuối cùng vào thế kỷ 15, những shugo daimyo thừa tự vẫn giữ được quyền lực. Những người đã trao quyền cho cấp phó của mình mất quyền và bị thay thế bởi một tầng lớp mới, "sengoku daimyo," đi lên từ cấp bậc shugodaikokujin.

Sengoku daimyo - Daimyo thời Sengoku

Trong các có rất nhiều người đã từng là shugo daimyo như gia tộc Satake, gia tộc Imagawa, gia tộc Takeda, gia tộc Toki, gia tộc Rokkaku, gia tộc Ōuchi và gia tộc Shimazu. Những gia tộc mới nhận tước hiệu này là các gia tộc Asakura, Amago, Nagao, Miyoshi, Chōsokabe, Jimbō, Hatano, Oda và Matsunaga. Những người này đi lên từ cấp bậc "shugodai" và các cấp phó của họ. Những sengoku daimyo nữa như gia tộc Mōri, gia tộc Tamura và gia tộc Ryūzōji đi lên từ các kokujin. Các viên chức thấp hơn của Mạc phủ và các ronin (gia tộc Hậu Hōjō, gia tộc Saitō), viên chức cấp tỉnh (gia tộc Kitabatake) và kuge (gia tộc Tosa Ichijō) cũng tiến lên hàng ngũ sengoku daimyo.

Daimyo dưới thời Edo

Sau trận Sekigahara năm 1600 đánh dấu sự bắt đầu của thời đại Edo, shogun Tokugawa Ieyasu tái cơ cấu lại một cách mạnh mẽ 200 daimyo và đất đai của họ thành các han và xếp hạng dựa trên sản lượng gạo. Daimyo là những người đứng đầu các han có sản lượng 10.000 koku (50.000 giạ) hay hơn. Ieyasu cũng phân loại daimyo dựa trên việc họ có gần gũi với gia đình Tokugawa không: shinpan có họ hàng với Tokugawa; fudai đã là chư hầu của Tokugawa hay đồng minh trong chiến tranh; và tozama là những người đối nghịch với Tokugawa trước trận chiến (không nhất thiết phải đánh lại Tokugawa).

Năm 1800, có khoảng 170 daimyo trên toàn Nhật Bản.

Một Daimyo đi thăm viếng chính thức, minh họa năm 1860 Shinpan là họ hàng của Ieyasu, như gia tộc Matsudaira, hay hậu duệ của Ieyasu mà không phải chi chính thừa tự. Vài shinpan, như Tokugawa ở tỉnh Owari (Nagoya), tỉnh Kii (Wakayama) và Mito, cũng như nhà Matsudaira ở Fukui và Aizu, nắm giữ các han rộng lớn.

Một vài fudai daimyo, như gia tộc Ii ở Hikone, giữ han rộng lớn, nhưng rất nhiều người chỉ quản lý các han nhỏ. Mạc phủ bổ nhiệm nhiều fudai ở các vị trí chiến lược để bảo vệ con đường giao thương đến Edo. Nhiều fudai cũng nhận nhiệm vụ ở Mạc phủ Edo, một số lên đến chức vụ rōjū. Sự thực là fudai daimyo có thể nắm các vị trí trong chính quyền trong khi tozama, nói chung, không thể, đó là sự khác nhau căn bản giữa hai loại.

Tozama daimyo làm chủ các thái ấp rộng lớn, với Kaga han ở quận Ishikawa, do gia tộc Maeda làm chủ, ước tính có tới 1.000.000 koku. Các gia tộc tozama nổi tiếng khác bao gồm gia tộc Mōri ở Chōshū, và gia tộc Shimazu ở tỉnh Satsuma, Date ở Sendai, gia tộc Uesugi ở Yonezawa và gia tộc Hachisuka ở Awa. Ban đầu, nhà Tokugawa cho rằng họ có thể nổi loạn bất cứ lúc nào, nhưng trong suốt thời Edo, hôn nhân giữa nhà Tokugawa với các tozama, cũng như chính sách kiểm soát như sankin kōtai, đã cho một cục diện hòa bình lâu dài.

Sankin kōtai

Sankin kōtai (luân phiên trình diện) là hệ thống trong đó nhà Tokugawa yêu cầu tất cả các daimyo cứ cách năm lại phải ở lại triều đình của Tokugawa ở Edo trong một năm, và giữ những thành viên gia đình của họ ở Edo khi họ trở lại han của mình. Điều này giúp cho việc kiểm soát về tài chính và chính trị của Edo với các daimyo chặt chẽ hơn. Sau này trong thời Tokugawa, nhiều hệ thống kiểm soát các daimyo khác cũng được thiết lập, như đóng góp bắt buộc vào các việc công cộng như xây dựng đường sá. Thêm vào đó, các daimyo bị cấm đóng thuyền và xây lâu đài, và việc thể hiện sức mạnh quân sự bị kiểm soát nghiêm ngặt.

Mệt mỏi vì những sự kiểm soát này, và thường trong tình hình tài chính tồi tệ vì những thứ như sankin kotai, bắt buộc phải ủng hộ cho các công việc công cộng, và tiêu xài hoang phí, vài daimyo đã chống lại Mạc phủ Tokugawa trong cuộc Minh Trị Duy Tân.

Sau cuộc Minh Trị Duy Tân

Năm 1869, năm sau cuộc Minh Trị Duy tân, daimyo, cùng với kuge, được xếp vào một tầng lớp quý tộc mới, kazoku. Năm 1871, han bị xóa bỏ và quận được thành lập, sau đó thực sự chấm dứt kỷ nguyên của các daimyo ở Nhật Bản. Sau sự thay đổi này, nhiều daimyo vẫn giữ được đất đai của mình, và được bổ nhiệm là thống đốc; tuy nhiên, họ sớm bị thôi chức và bị gọi toàn bộ về Tokyo, do đó cắt bỏ mọi cơ sở quyền lực độc lập ẩn chức mối họa nổi dậy tiềm tàng. Bất chấp việc này, thành viên của các gia đình daimyo vẫn giữ vị trí nổi bật trong chính phủ và xã hội, vài trường hợp vẫn còn quan trọng cho đến ngày nay.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|[[Shimazu Nariakira, daimyo của lãnh địa Satsuma, trong bức hình chụp đage của Ichiki Shirō]] () là những lãnh chúa phong kiến từ thế kỷ 10 đến đầu thế kỷ 19 ở Nhật Bản thần
thumb|right|[[Honda Tadakatsu, _fudai daimyō_ nổi tiếng thời kỳ tiền Edo]] là hạng của _daimyō_ là chư thần kế thừa của Mạc phủ Tokugawa trong thời kỳ Edo. _Fudai_ chủ yếu là tầng lớp thân thuộc
thumb|gia huy của Gia tộc Oda (emblem) là một daimyo trong thời kỳ Chiến Quốc của lịch sử Nhật Bản. Ông là người có công lớn trong việc thống nhất Nhật Bản, chấm dứt thời
, còn gọi là **Matsudaira Keiei**, hay được biết đến với cái tên là một _daimyō_ of cuối thời Edo. Ông là người đứng đầu phiên Fukui tỉnh Echizen. Ông được coi là một trong
**Mōri Motonari** (kanji: 毛利 元就, phiên âm Hán Việt: _Mao Lợi Nguyên Tựu_) là một lãnh chúa _Daimyō_ xứ Aki vào cuối thời kỳ Muromachi cho đến thời kỳ Chiến Quốc trong lịch sử Nhật
là một samurai sống vào Thời kỳ Edo trong lịch sử Nhật Bản, _daimyō_ đời thứ 3 của Phiên Sendai ở miền bắc nước Nhật trong giai đoạn 1658 - 1660, và tộc trưởng đời
là _daimyō_ nhà Hotta đời thứ năm của phiên Sakura vào thời Edo, giữ chức _rōjū_ (lão trung) trong Mạc phủ Tokugawa thời Bakumatsu, đóng một vai trò quan trọng trong các cuộc đàm phán
**** (Hiragana: だて/いだて まさむね), là một _daimyō_ thời Azuchi–Momoyama và đầu thời Edo trong lịch sử Nhật Bản. Xuất thân là người thừa kế của gia tộc daimyō quyền lực nhiều đời tại vùng Tōhoku,
thumb|gia hiệu của Gia tộc Toyotomi **Toyotomi Hideyoshi** (豊臣 秀吉, とよとみ ひでよし, Hán-Việt: _Phong Thần Tú Cát_) còn gọi là **Hashiba Hideyoshi** (羽柴 秀吉, はしば ひでよし, Hán-Việt: _Vũ Sài Tú Cát_) (26 tháng 3 năm
**** là _daimyō_ đời thứ 2 của Phiên Sendai thuộc xứ Tōhoku dưới thời Edo trong lịch sử Nhật Bản. ## Tiểu sử Tadamune chào đời vào năm Khánh Trường thứ 12 (1600), có tên
thumb|Khu công nghiệp Tập Thành Quán (集成館) do Shimazu Nariakira thành lập năm 1852 tại Iso (磯), [[phiên Satsuma. Một _dị nhân quán_ (異人館) được xây dựng để làm chỗ ở cho bảy kỹ thuật
là một samurai sống vào thời Bakumatsu và thời Minh Trị. Ông là _daimyō_ thứ 9 của phiên Aizu và _Kyōto Shugoshoku_ (Thủ hộ Kyoto). Trong chiến tranh Boshin, đích thân ông lãnh đạo cả
nhỏ|Honda Tadakatsu **** (1 tháng 11, 1548 – 3 tháng 12 năm 1610), còn gọi là **Honda Heihachirō** (本多平八郎), là một tướng quân người Nhật (và sau đó là một daimyo) từ thời Hậu Sengoku
nhỏ|phải|Mộ Imagawa Yoshimoto ở Okehazama là một trong các _daimyo_ hàng đầu (lãnh chúa phong kiến) vào đầu thời đại Sengoku ở Nhật Bản. Lấy cơ sở là tỉnh Suruga, ông là một trong ba
là một gia đình daimyo Nhật Bản, đã từng là một thế lực chính trị quan trọng trong việc thống nhất Nhật Bản vào giữa thế kỷ 16. Mặc dù họ đạt đến tột đỉnh
| label2 = Kanji | data2 = | label3 = Kana | data3 = | label4 = Hiragana | data4 = | label5 = Katakana | data5 = | label6 = Kyūjitai | data6 =
là _daimyō_ thứ 13 của phiên Chōshū. Về sau ông được phép sử dụng một chữ từ tên của Tướng quân Tokugawa Ieyoshi và đổi tên thành **Yoshichika** (慶親). Phiên trấn của ông là kẻ
là _daimyō_ hai tỉnh Bizen và Mimasaka (Okayama ngày nay) và là một trong năm vị _Go-tairō_ do Toyotomi Hideyoshi bổ nhiệm với mục đích làm nhiếp chính cho ấu tử Toyotomi Hideyori. ## Tiểu
Uesugi Kenshin, con rồng xứ Echigo, vị thần chiến tranh. là một daimyo làm chủ tỉnh Echigo trong thời kỳ Sengoku ở Nhật Bản. Ông là một trong những lãnh chúa hùng mạnh vào thời
(1546 - 1599) là một vị daimyo (lãnh chúa) thứ 26 của nhà Nanbu trong thời kỳ Sengoku Nhật Bản. Ông là con trai của (Nanbu) Ishikawa Takanobu và được nhận làm con nuôi của
, tên đầy đủ là , còn được gọi là , là một samurai sống vào cuối thời Chiến Quốc tại Nhật Bản. Ông là con của _daimyō_ Sanada Masayuki và là em trai của
là một samurai Nhật Bản trong thời đại Sengoku đến thời đại Azuchi-Momoyama vào thế kỷ 16. Ông là một thuộc hạ của gia tộc Oda, và cuối cùng trở thành một daimyo. Từ khi
là một samurai Nhật Bản trong thời kỳ Azuchi-Momoyama. Ông là con thứ hai của Oda Nobunaga. Ông đã sống sót sau sự suy sụp của gia tộc Oda, và trở thành một daimyo vào
là một daimyo đồng thời là một nhà chỉ huy quân sự của Nhật Bản thời kỳ Azuchi-Momoyama. Ông từng là thuộc hạ của Oda Nobunaga, Toyotomi Hideyoshi và Toyotomi Hideyori. Trong chính quyền Toyotomi,
là một lãnh chúa và quan tòa vùng hạ Owari trong thời Sengoku tại Nhật Bản. Ông là cha của Oda Nobunaga. ## Tộc trưởng Với tư cách tộc trưởng gia tộc Oda, Nobuhide thường
**Sanada Masayuki** (真田昌幸, **Chân Điền Xương Hạnh**) (1544 (1547?) - 13/7/1611) là một daimyo trong thời đại Sengoku, và được biết đến như là một chiến lược gia tài ba. Ông là con trai thứ
là một _daimyō_ Nhật Bản sống vào thời Sengoku. Ông từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình, bao gồm _Rōjū_ và sau đó là _Tairō_. ## Cuộc đời Là con trai của
là một daimyo thời Sengoku, thời kỳ Azuchi-Momoyama. Ông sinh năm 1558, cha ông được cho là đã từng phục dịch cho Ōtomo Sōrin hoặc Rokkaku Yoshikata. Ông là thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi và
Hầu tước là một _daimyō_ của phiên Fukuoka sống vào cuối thời Edo. ## Tiểu sử Nagahiro là con trai thứ chín của Shimazu Shigehide, lãnh chúa phiên Satsuma; Kuroda Narikiyo, phiên chủ Fukuoka, đã
Hầu tước là _daimyō_ đời thứ tám của phiên Uwajima thời Bakumatsu và là một chính trị gia đầu thời Minh Trị. ## Tiểu sử Munenari chào đời tại Edo, là con trai thứ tư
, còn gọi là , là một _daimyō_ của phiên Tosa vùng Shikoku vào cuối thời Edo. Ông thường được gọi là "**Lãnh chúa Yōdō**" theo nguồn tài liệu phương Tây. ## Tiểu sử Yamauchi
Công tước (_kōshaku_) , còn gọi là ****, là một samurai và chính trị gia cuối thời Bakumatsu và đầu thời Minh Trị. Hisamitsu là người nắm quyền hành tối cao trên thực tế của
là một lãnh chúa (_daimyo_) của vùng Kai và vùng Shinano trong thời Chiến Quốc của Nhật Bản. Được mệnh danh là "Mãnh hổ xứ Kai", Takeda Shingen là một trong những lãnh chúa mạnh
(1528 – 2 tháng 7 năm 1582) là tướng thân cận nhất và giỏi nhất của Oda Nobunaga (và cả Toyotomi Hideyoshi) nhưng lại phản bội ông. Vào tháng 6 năm 1582, trong lúc chiến tranh
(1576 - 1632) là một vị daimyo đầu tiên ở vùng Morioka trong thời kỳ Edo của Nhật Bản. ## Tiểu sử Nanbu được sinh ra ở thành Tago, trong làng Sannohe, là con trai
là một vị daimyo của vùng Shinano và là một trong 24 vị tướng của Takeda Shingen trong thời kỳ Sengoku. Yukitaka là con trai của Unno Munetsuna, là cha của Sanada Masayuki và là
nhỏ|Gia huy của [[Gia tộc Tokugawa]] là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shōgun (Tướng Quân) đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa,
là một trong những tướng quân quan trọng của Oda Nobunaga từ thời kỳ Sengoku vào thế kỷ 16 cho đến thời kỳ Azuchi-Momoyama. Cha ông tên là Maeda Toshimasa. Ông là người thứ 4
là con trai của Azai Hisamasa, một daimyo vùng Omi. Nagamasa đã có nhiều chiến tích trên chiến trường cùng Rokkaku Yoshitaka và Saito Katsuoki. Những trận đánh tiêu biểu mà Nagamasa đã tham gia
, còn gọi là là một daimyo và thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi trong thời đại Azuchi-Momoyama. Ông là con trai của Hachisuka Masatoshi. Gia tộc Hachisuka là _kokujin_ ở huyện Kaitō tỉnh Owari (ngày
là anh em cùng cha khác mẹ của Toyotomi Hideyoshi, một trong những daimyo hùng mạnh và quan trọng nhất trong thời đại Sengoku ở Nhật Bản. Sau khi cùng tham chiến và giúp đỡ
là cháu trai và thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi, sống trong thời đại Sengoku, thế kỷ 16 ở Nhật. Là người theo shudo, Hidetsugu có rất nhiều wakashu. Trong số đó có Yamamoto Tonoma, Yamada
là một daimyo của vùng Satsuma, một danh tướng trong hai thời kỳ Azuchi-Momoyama và Sengoku. Ông là con trai thứ hai của Shimazu Takahisa và là em trai của Shimazu Yoshihisa. Dân gian vẫn
, còn được gọi là , là một daimyo và vị tướng dưới thời đại Sengoku và thời đại Azuchi-Momoyama, thế kỷ 16 ở Nhật Bản. Ông là thuộc tướng của hai đại lãnh chúa
là một daimyo trong thời Senkoku ở Nhật Bản. Ông là tộc trưởng thứ 21 của gia tộc Chōsokabe ở tỉnh Tosa (nay là quận Kōchi). Ông là con trai và người thừa tự của
là một daimyo thời kỳ Sengoku làm chủ vùng Echigo (nay là Niigata) và là một thuộc tướng của Uesugi Kenshin luôn được khen ngợi. Kageie được đặt cho một cái hiệu là Izumi no
là một võ sĩ của Nhật Bản sau thời kỳ Sengoku và thời kỳ Azuchi-Momoyama. Ông có danh hiệu là và còn được biết với cái tên . Ông là một trong "Ba người hầu
**Go-tairō**, còn được gọi là **Hội đồng năm vị đại lão** (五大老 _Ngũ Đại Lão_), do Toyotomi Hideyoshi thành lập để thay mặt con trai ông, Hideyori thống trị Nhật Bản, cho đến khi Hideyori
là một daimyō thời Chiến Quốc, người đã cai trị một phần tỉnh Echizen. Ông sinh ra ở Ichijodani Echizen, và trở thành người đứng đầu gia tộc Asakura từ năm 1548.
**Date Terumune** (伊達 輝宗, sinh năm 1543 mất ngày 29 tháng 11 năm 1585), là một daimyō Nhật Bản thời Sengoku. Ông nối tiếp thành công của cha mình Harumune và trở thành người lãnh