✨Biến loạn Fujiwara no Nakamaro

Biến loạn Fujiwara no Nakamaro

, còn được gọi là Biến loạn Emi, là một cuộc đối đầu quân sự vào thời kỳ Nara trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và cuối cùng phải chuốc lấy thất bại do cuộc đấu tranh quyền lực giữa cựu Thiên hoàng Kōken với nhân vật chính trị nổi tiếng lúc bấy giờ là Fujiwara no Nakamaro xuất thân từ gia tộc Fujiwara quyền thế.

Thông qua sự hỗ trợ của Thiên hoàng Shōmu và Hoàng hậu Kōmyō, người từng là thành viên gia tộc Fujiwara, Nakamaro nhanh chóng leo lên nấc thang sự nghiệp chính trị trong suốt những năm 740 và 750 để đạt được địa vị cao nhất hòng kiểm soát triều đình. Trong những năm đầu triều đại của Thiên hoàng Junnin mà ông ủng hộ, trên thực tế, Nakamaro mới là người cai trị đất nước. Sau khi Hoàng hậu Kōmyō qua đời vào năm 760, cựu Thiên hoàng Kōken đã bắt đầu giành chính phủ và thực quyền về tay bà, dẫn đến một cuộc xung đột giữa Nakamaro / Junnin tách thành một phe với Thiên hoàng Kōken và quan cận thần của bà là nhà sư Dōkyō.

Để khôi phục quyền lực, vào ngày thứ 11 của tháng thứ 9, năm Tenpyō-hōji thứ 8 (tức ngày 14 tháng 10 năm 764), Nakamaro đã chiếm giữ các nhánh của chính quyền thuộc Hoàng thất và rời khỏi kinh đô Nara tới các tỉnh miền Đông. Những người theo phe Thiên hoàng Kōken đã phản ứng bằng cách huy động một đội quân và chặn mọi con đường chính của phe Nakamaro. Hai đội quân cuối cùng đã tham gia vào trận chiến một tuần sau đó vào ngày 18 tháng 9 (hay ngày 21 tháng 10 năm 764) tại Miozaki ở phía tây hồ Biwa, sau đó Nakamaro đã bị giết, chấm dứt cuộc nổi loạn.

Bối cảnh

Vươn tới quyền lực

Fujiwara no Nakamaro vốn là một quý tộc thuộc Công gia (kuge) và là con trai thứ hai của Fujiwara no Muchimaro, người sáng lập nên chi nhánh nanke (phía nam) của gia tộc Fujiwara. Ông sống trong thời kỳ Nara, khi đó gia tộc Fujiwara đang cạnh tranh với gia tộc Tachibana nhằm giành lấy ảnh hưởng tại triều đình. Dưới thời trị vì của Thiên hoàng Shōmu (từ năm 724 đến năm 749), gia tộc Tachibana đã giành được lợi thế cũng như vị trí Tả Đại thần được nắm giữ bởi Tachibana no Moroe. Fujiwara no Nakamaro đã lần đầu tiếp xúc với quân đội Hoàng thất để hộ tống Thiên hoàng Shōmu di giá đến các tỉnh phía đông khi biến loạn Fujiwara no Hirotsugu đang diễn ra.

Vào năm 743, ông được bổ nhiệm làm cố vấn Triều đình. Không lâu sau đó, khi thủ đô được chuyển từ Kuni, gần căn cứ chính trị của gia tộc Tachibana đến Cung điện Shigaraki, gần nơi ở của Nakamaro, và được hậu thuẫn bởi người dì của ông là Hoàng hậu Kōmyō để trở thành Thái chính quan. Với tư cách là người bảo trợ lễ nghi cho Hoàng hậu (shibi chudai), ông chịu trách nhiệm về các vấn đề chính của Hoàng hậu Kōmyō và ảnh hưởng chính trị của ông tăng lên đáng kể khi luật pháp do ông ban hành có trọng lượng tương đương với sắc lệnh của Thiên hoàng. Cùng lúc đó, ảnh hưởng của Tachibana no Moroe, người được hậu thuẫn bởi Thiên hoàng Genshō thì đã suy tàn. Nhờ đó, Nakamaro đã tăng nhanh chóng địa vị của mình trong hội đồng luật lệnh từ Tòng Tứ phẩm (744) đến Chính Tứ phẩm (746), Tòng Tam phẩm (748), Chính Tam phẩm (749) và Tòng Nhị phẩm vào năm 750.

Thiên hoàng Shōmu thoái vị vào năm 749 và truyền ngôi cho con gái của mình là Công chúa Takano-hime, về sau trở thành Thiên hoàng Kōken. Mặc dù là một người phụ nữ độc lập và có ý chí mạnh mẽ, tự đánh đồng mình với Nữ hoàng Võ Tắc Thiên nổi tiếng độc đoán của Trung Quốc, song trong những năm đầu tiên của triều đại cho đến năm 758, bà vẫn chịu sự chi phối quyền lực của Thượng hoàng Shōmu và Hoàng Thái hậu Kōmyō. Bà ủng hộ gia tộc Fujiwara và đặc biệt là Nakamaro bằng cách mang lại cho ông ta rất nhiều bổng lộc, quyền lực và thăng cấp cho ông ta. Khi Moroe công khai chỉ trích Thiên hoàng Kōken tại yến tiệc vào năm 755, Nakamaro và những người theo phe ông đã buộc ông ta phải từ bỏ chức vị của mình. Sự tái xuất nhanh chóng của Nakamaro nhờ vào sự thiên vị của Thiên hoàng khiến cho ông bị đố kị, từ ngay cả trong số các thành viên gia tộc Fujiwara và đặc biệt là anh trai ông là Toyonari.

Sau khi Moroe qua đời vào năm 757, con trai của ông, Tachibana no Naramaro đã có âm mưu thanh trừng Fujiwara no Nakamaro và phế truất Thiên hoàng Kōken (xem Âm mưu của Tachibana no Naramaro). Nhưng Nakamaro đã biết được âm mưu của Naramaro và sau đó, những kẻ trong cuộc đều bị xử tử và anh trai là Toyonari bị lưu đày ở Dazaifu. Cùng năm đó, Nakamaro được bổ nhiệm làm Hữu Đại thần, trở thành quan cận kề thiết thân của Hoàng Thái hậu (shibi naishō), giám sát công tác quân sự của đất nước. Các vị trí khác mà ông nắm giữ trong thời gian này bao gồm "Thứ trưởng" (jasakijin) và "Chỉ huy cao cấp của các binh sĩ trung lưu". Vào ngày 11 tháng 1 năm 760, Nakamaro được thăng cấp từ taihō lên taishi và được phong làm Tòng Nhất phẩm; và vào năm 762, ông trở thành quan Chính Nhất phẩm. Bà cho phép Thiên hoàng Junnin tiếp tục trị vì -vốn là người được Nakamaro hỗ trợ- song ông chỉ thực hiện các nghi lễ vừa và nhỏ, trong khi đó bà sẽ xử lý tất cả các vấn đề quan trọng bao gồm việc sắc phong và trừng phạt quan lại. Nạn đói, dịch bệnh, chi phí cho kế hoạch xâm chiếm Tân La và trong việc xây một cung điện mới tại Hora đã tạo thêm gánh nặng cho chính quyền. Ngoài ra, Thiên hoàng Kōken đã phát triển mối quan hệ mật thiết với Nhà sư Phật giáo, Dōkyō, người đã chữa lành cho bà khỏi bệnh tật vào tháng thứ 4 năm 762. Vào năm sau, việc bổ nhiệm nhà sư Dōkyō lên cấp Tam phẩm trong hệ thống Shōsozu, thay thế cho Jikun, một linh mục thân thiết với Nakamaro. Vào ngày 2 tháng 9 (ngày 01 tháng 10) năm 764, Nakamaro yêu cầu Thiên hoàng Kōken phong cho ông làm "Giám sát Tứ tỉnh quân của Kinai, và ba tỉnh (Echizen, Mino, Ise), Ōmi, Tanba và Harima ". sau đó,Shioyaki trở thành Thiên hoàng mới. Theo Zachert, sự bất ổn chính trị và mối đe dọa đối với sự kế thừa ngai vàng do Dōkyō gây ra trong thời cai trị của Thiên hoàng Kōken / Shōtoku đóng vai trò ngăn chặn dòng dõi và Nhật Bản sẽ không có một vị nữ Thiên hoàng khác trong vòng gần 1000 năm.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, còn được gọi là Biến loạn Emi, là một cuộc đối đầu quân sự vào thời kỳ Nara trong một khoảng thời gian ngắn ngủi và cuối cùng phải chuốc lấy thất bại do
hay còn được gọi **Loạn Hōgen**, **Bảo Nguyên Loạn**, là một cuộc nội chiến ngắn ngủi nhưng quan trọng ở Nhật Bản, chủ yếu xoay quanh việc kế vị ngai vàng Nhật Bản. Tranh chấp
(701 – 770), là một chính trị gia kiêm nhà thơ gốc Nhật thời Đường ở Trung Quốc. Thời kỳ làm quan tại Trung Quốc ông có tên gọi bằng tiếng Trung là **Triều Hoành**
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
**Thời kỳ Nara** (tiếng Nhật: 奈良時代 |_Nara-jidai_, _Nại Lương thời đại_) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Thiên hoàng Gemmei (元明天皇 _Gemmei Tennō_, _Nguyên Minh Thiên Hoàng_) đặt
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
là thiên hoàng thứ 47 của Nhật Bản theo truyền thống thứ tự kế thừa ngôi vua. Triều đại của ông kéo dài những năm 758 đến 764 ## Tường thuật truyền thống Ông có
**Nữ hoàng** (chữ Hán: 女皇, tiếng Anh: _Empress Regnant_), cũng được gọi là **Nữ đế** (女帝) hay **Nữ hoàng đế** (女皇帝), **bà hoàng**, **bà chúa** là một danh từ dùng để chỉ người phụ nữ
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là