✨Abe no Nakamaro

Abe no Nakamaro

(701 – 770), là một chính trị gia kiêm nhà thơ gốc Nhật thời Đường ở Trung Quốc. Thời kỳ làm quan tại Trung Quốc ông có tên gọi bằng tiếng Trung là Triều Hoành (朝衡), Tiều Hoành (晁衡), Trào Hoành (鼂衡), tự Cự Khanh (巨卿).

Abe no Nakamaro sinh ở Yamato (Đại Hòa quốc), là một lưu học sinh trong thời kỳ Nara, được gửi sang Trung Quốc để học tập, sau đó ông tham gia thi cử tại đây và đỗ tiến sĩ, được nhà Đường lưu lại làm quan.

Xuất thân

Abe no Nakamaro là hậu duệ của dòng dõi quý tộc có nguồn gốc từ Thiên hoàng Kōgen. Cha đẻ ông là Abe no Funamori (阿倍船守, A Bội Thuyền Thủ), từng giữ chức trung vụ đại phụ. Ông là con trai trưởng, từ thuở nhỏ đã có tiếng là thông minh hiếu học, tài hoa hơn người.

Du học và làm quan ở Trung Quốc

Năm 717, Tajihi no Agatamori (多治比縣守, Đa Trì Bỉ Huyền Thủ) làm khiển Đường sứ, bằng thuyền từ cảng Namba tới kinh đô nhà Đường tại Trường An, Abe no Nakamaro được tuyển làm khiển Đường lưu học sinh, cùng đi còn có một lưu học sinh nổi tiếng khác, sau này trở thành hữu đại thần của Nhật Bản là Kibi no Makibi (吉備 真備, Cát Bị Chân Bị). Tổng cộng đoàn đi bao gồm 4 chiếc thuyền với 557 người vượt qua biển khơi mênh mông, nhằm hướng tây tiến về biển Hoa Đông, tại Dương Châu (có thuyết cho là Minh Châu) rời thuyền lên bộ. Sau một thời gian học tập chịu nhiều đói rét và gian khổ, Abe no Nakamaro tham gia kỳ thi của nhà Đường và đỗ tiến sĩ.

Năm 725 ông nhậm chức tả xuân phường tư kinh cục giáo thư (phụ trách chỉnh lý điển tịch, hàm chánh cửu phẩm hạ) tại Lạc Dương, năm 728 đổi làm tả thập di (hàm tòng bát phẩm thượng), năm 731 nhậm chức tả bổ khuyết (hàm tòng thất phẩm thượng) tại môn hạ tỉnh. Do là người có tài đức, văn thơ hay, được Đường Huyền Tông thưởng thức, nên sau đó ông được giao làm bí thư giám, ban cho tên gọi là Triều Hoành, hầu hạ hàng ngày bên cạnh vua. Ông là bạn bè văn thơ với Lý Bạch, Vương Duy, Trữ Quang Hi, Bao Cát.

Trở về quê hương

nhỏ|phải|219x219px|Hình vẽ Abe no Nakamaro trong loạt tranh khắc gỗ kiểu [[ukiyo-e của Hokusai.]] Tháng 10 âm lịch năm 753, sau khi được phép cho trở về quê hương, Triều Hoành cùng Fujiwara no Kiyokawa (藤原清河, Đằng Nguyên Thanh Hà), Ōtomo no Komaro (大伴古麻呂, Đại Bạn Cổ Ma Lữ) và Kibi no Makibi chỉ huy đoàn thuyền gồm 4 chiếc, từ Hoàng Tứ Phố, Tô Châu xuất hành. Trước khi ông ra đi, Vương Duy có làm bài thơ "Tống bí thư Triều giám hoàn Nhật Bản quốc". Trong đoàn đi còn có một cao tăng của chùa Duyên Quang tại Dương Châu là hòa thượng Giám Chân, người từ 11 năm trước đã từng 5 lần tổ chức vượt biển tới Nhật Bản để truyền đạo nhưng bất thành.

Gặp nạn trên biển

Ra tới giữa biển khơi thì đoàn thuyền gặp sóng to gió lớn, nên các thuyền bị trôi dạt. Thuyền chở Giám Chân cùng 2 thuyền khác tới được Nhật Bản vào ngày 20 tháng 12 âm lịch năm 753, nhưng chiếc thuyền chở Triều Hành thì bị sóng gió xô đẩy, mất liên lạc.

Cho tới tháng 3 năm 754 vẫn không có tin tức gì về chiếc thuyền này. Nhà thơ Lý Bạch, bạn văn thơ của ông đã sáng tác bài "Khốc Triều khanh Hoành" (哭晁卿衡) để tưởng nhớ tới ông, do cho rằng ông đã chết trên biển. Tuy nhiên, chiếc thuyền chở ông đã trôi dạt tới Hoan Châu An Nam (khi đó do nhà Đường cai trị, nay thuộc tỉnh Nghệ An, Việt Nam), và bị đạo tặc tại khu vực này tập kích, giết chết trên 177 người, nhưng ông cùng Fujiwara no Kiyokawa may mắn thoát chết.

Trở về Trường An

Tháng 6 năm 755, ông và Fujiwara no Kiyokawa cùng khoảng 10 người còn sống sót sau khi vượt qua nhiều gian nan nguy hiểm đã về tới Trường An. Cùng năm, An Lộc Sơn nổi loạn (trong lịch sử người ta thường gộp chung với loạn do Sử Tư Minh cầm đầu để gọi là loạn An Sử), đường giao thông Trung Quốc-Nhật Bản do vậy trở nên nguy hiểm, và như thế Triều Hành cũng từ bỏ hi vọng trở về quê hương.

Làm quan ở An Nam và qua đời

Triều Hành được Đường Túc Tông và Đường Đại Tông tín nhiệm, phong làm quan tới tả tán kị thường thị (ngự tiền gián quan, hàm tòng tam phẩm) và sau đó là tiết độ sứ Trấn Nam đô hộ phủ (hàm chánh tam phẩm) từ năm 761 tới năm 767. Chức quan cao nhất của ông là Lộ Châu đại đô đốc (hàm tòng nhị phẩm).

Tháng 1 năm 770 ông mất tại Trường An, thiên hoàng Nhật Bản truy phong cho ông hàm quan chánh nhị phẩm.

Sáng tác

  • Hàm mệnh hoàn quốc tác, tác phẩm duy nhất của người ngoại quốc được chép lại trong Văn uyển anh hoa thời Tống.
  • Vọng hương
  • Tư quy

Kỉ niệm

nhỏ|Bia kỉ niệm Abe no Nakamaro ở Tây An. Năm 1979, tại công viên Hưng Khánh ở Tây An người ta đã lập bia kỷ niệm và nhà kỷ niệm Abe no Nakamaro. Tại tỉnh Giang Tô cũng có bia ghi ơn Abe no Nakamaro.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
(701 – 770), là một chính trị gia kiêm nhà thơ gốc Nhật thời Đường ở Trung Quốc. Thời kỳ làm quan tại Trung Quốc ông có tên gọi bằng tiếng Trung là **Triều Hoành**
right|thumb|Tamamo-no-Mae. Woodblock print by Tsukioka [[Yoshitoshi.]] **Tamamo-no-Mae** (Ngọc Tảo Tiền) là một nhân vật thần thoại Nhật Bản, với tư cách là kỹ nữ của Thiên hoàng Konoe. Cô được cho là một tuyệt thế
**Thời kỳ Nara** (tiếng Nhật: 奈良時代 |_Nara-jidai_, _Nại Lương thời đại_) của lịch sử Nhật Bản kéo dài từ năm 710 đến năm 794. Thiên hoàng Gemmei (元明天皇 _Gemmei Tennō_, _Nguyên Minh Thiên Hoàng_) đặt
thumb|Thẻ bài thơ số 1 thumb|Ogura shikishi bởi Teika hay tên tiếng Việt là **_Thơ trăm nhà_**, là hợp tuyển thơ cổ Nhật Bản gồm 100 bài thơ _Waka_ (_hoà ca_) của 100 nhà thơ.
## Nhận xét sơ bộ Chỉ có các nhà văn và nhà thơ Nhật Bản được đưa vào danh sách sau đây mà thôi. Thuật ngữ _nhà văn_, giống như thuật ngữ _văn học_, được
thumb|Cửu vĩ thiên hồ được vẽ trong [[Sơn Hải Kinh bản thời nhà Thanh.]] **Cửu vĩ thiên hồ** (chữ Hán: 九尾天狐), **cửu vĩ hồ** (chữ Hán: 九尾狐), thông thường gọi **Cáo chín đuôi** hay **Hồ
**Quan hệ Nhật Bản–Việt Nam** tắt là **quan hệ Việt-Nhật** (tiếng Nhật:日越関係) bắt đầu từ cuối thế kỷ 16 khi các nhà buôn Nhật Bản đến Việt Nam buôn bán. Việt Nam chính thức lập
**Nhà Đường** là một hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 618 đến năm 907. Thành lập bởi gia tộc họ Lý, nhà Đường là triều đại kế tục nhà Tùy (581–618) và là
nhỏ|300x300px|Cây Phù Tang được vẽ trong một bản khắc từ hình chạm nổi trong lăng mộ nhà Vũ Lương, khoảng giữa thế kỷ thứ 2 **Phù Tang** () đề cập đến các đối tượng khác
**Bắc thuộc lần thứ ba** trong lịch sử Việt Nam kéo dài từ năm 602 đến năm 905 hoặc năm 939. Thời kỳ này bắt đầu khi Tùy Văn Đế sai Lưu Phương đánh chiếm
**An Nam đô hộ phủ** (chữ Hán: 安南都護府) là tên gọi một vùng lãnh thổ nằm dưới quyền kiểm soát của nhà Đường giai đoạn 679–866, tương ứng với một phần tây nam Quảng Tây
**Năm 701** trong lịch Julius. ## Sự kiện ## Sinh * Lý Bạch * Abe no Nakamaro - chính trị gia và nhà thơ Trung Quốc gốc Nhật * Vương Duy - nhà thơ, hoạt
**Trấn Nam** (chữ Hán: 鎮南) là một đơn vị hành chính quân sự của nhà Đường trong lịch sử Trung Quốc, bao gồm phần lớn miền Bắc và một phần miền Trung Việt Nam ngày
**Tiều** (Chữ Hán: 晁; Bính âm: _Cháo_) và **Tiều** (Phồn thể: 譙; Giản thể: 谯; Bính âm: _Qiáo_), là một họ của người Trung Quốc và Triều Tiên. Họ Tiều (晁) đứng thứ 373 trong
là thiên hoàng thứ 46 và cũng là - thiên hoàng thứ 48 theo danh sách thiên hoàng truyền thống của Nhật Bản. Bà là nữ Thiên hoàng thứ hai lên ngôi hai lần, sau
Dưới đây là danh sách ghi nhận về những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Nhật Bản, trong đó có Vương quốc Lưu Cầu: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ