✨Tên người Nhật Bản

Tên người Nhật Bản

, một tên tiếng Nhật của nam, tương đương với John Smith trong tiếng Anh. Jane Smith tương đương sẽ là .

hiện đại thường bao gồm phần đứng trước, phần đứng sau. Thứ tự gọi tên này là chung cho các nước trong vùng ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa như Triều Tiên và Việt Nam. Ở Nhật Bản tên lót rất ít được sử dụng. Tên Nhật thường được viết bằng kanji, loại chữ Hán sử dụng tại Nhật và được đọc ý theo thổ âm Nhật (cách đọc này là ). Chính vì tên viết bằng kanji đọc theo ý chứ không phải âm, một chữ kanji trong tên thường có nhiều cách phát âm khác nhau trong tiếng Nhật, tuy nhiên nhiều bố mẹ có thể đặt tên cho trẻ sơ sinh bằng hai bộ ký tự ký âm hiragana và katakana. Tên viết bằng hiragana và katakana chỉ mang ý nghĩa thông dịch về mặt ngữ âm (biểu diễn cách đọc), vì vậy thiếu ý nghĩa trực quan của tên thể hiện trong chữ tượng hình kanji (điều này tương tự như tên người Việt hiện không được viết bổ sung theo chữ Hán-Nôm, cùng với việc chữ Quốc ngữ chỉ có thể biểu âm, khiến cho các từ đồng âm khác nghĩa gây ra sự hiểu sai nghĩa trong tên).

Hiện nay ở Nhật có khoảng 100000 họ đang được sử dụng. Những họ thông dụng ở Nhật hiện nay là , , , . Sự đa dạng này hoàn toàn trái ngược với các quốc gia khác trong cùng văn hoá Á Đông, phản ánh một lịch sử khác biệt của Nhật Bản: trong khi họ Trung Quốc đã được sử dụng từ hàng ngàn năm nay và thường phản ánh toàn bộ một gia tộc hoặc con nuôi của gia đình giàu có (có hoặc không có mối quan hệ di truyền) - và từ đó đã được lan truyền cho Triều Tiên và Việt Nam thông qua tên của các quan lại hoặc nhà giàu; đại đa số các họ hiện đại của Nhật Bản chỉ bắt đầu có từ thế kỷ thứ XIX, tiếp nối các cải cách thời kỳ Minh Trị trong những năm 1870, và được lựa chọn theo ý thích. Việc giới thiệu bằng họ của người Nhật gần đây có hai tác dụng bổ sung: tên tiếng Nhật trở nên phổ biến khi dân số nước này phát triển mạnh (hơn 30 triệu dân trong thời kì đầu của Minh Trị – xem Nhân khẩu học Đế quốc Nhật) so với số lượng trong quá khứ (ví dụ, dân số ước tính năm 1 của Công Nguyên là 300.000 - xem Nhân khẩu học Nhật Bản trước thời kì Minh Trị), và chỉ một thời gian ngắn trôi qua, các tên của người Nhật hầu như chưa gặp phải tình trạng tuyệt chủng về họ như đã xảy ra trong suốt quá trình lịch sử ở Trung Quốc.

Họ của người Nhật cũng xuất hiện nhiều hay ít tùy theo vùng, ví dụ như , và xuất hiện nhiều tại Okinawa trong khi không mấy phổ biến ở các vùng khác; điều này chủ yếu là do sự khác biệt giữa ngôn ngữ và văn hóa của người Yamato và người Okinawa. Nhiều họ của người Nhật được đặt dựa trên các hình ảnh nông thôn do ảnh hưởng của Thần đạo như có nghĩa là sông đá, có nghĩa là chân núi, có nghĩa là trên miệng giếng.

Trong khi phần họ tuân theo các quy tắc tương đối phù hợp, tên riêng tỏ ra đa dạng hơn nhiều lần trong cách phát âm và cách sử dụng kanji. Trong khi nhiều tên gọi thông thường có thể dễ dàng viết ra hoặc phát âm, nhiều bậc cha mẹ chọn tên với các mẫu tự kanji hay cách phát âm ít gặp, và những cái tên như vậy nói chung không thể viết hay phát âm được nếu không có cả phần mẫu tự và phát âm. Cách phát âm ít gặp này gần đây trở nên đặc biệt phổ biến, khi xu hướng đặt tên như vậy đã tăng lên đáng kể từ những năm 1990. Ví dụ, một cái tên bé trai phổ biến 大翔 theo truyền thống được phát âm là "Hiroto", nhưng trong những năm gần đây có các cách phát âm thay thế như "Haruto", "Yamato", "Taiga", "Sora", "Taito", "Daito", và "Masato" đều được sử dụng. Những người có huyết thống hỗn hợp giữa Nhật Bản và nước ngoài có thể có tên lót.

Trong lịch sử, myōji, ujisei mang những ý nghĩa khác nhau. Sei ban đầu mang nghĩa là "họ nội", đây là lý do tại sao cho đến hiện tại, nó chỉ được cấp bởi Thiên hoàng, như một danh hiệu cấp bậc cho nam giới. Cấp bậc thấp hơn của 'Sei' là 'Tei', đó là một tên phổ biến của đàn ông Nhật Bản. Mặc dù vậy, họ cũng là gia tộc tổ tiên trong lịch sử Nhật mà cái tên 'Sei' bắt nguồn từ đó. Có rất ít các sei, và hầu hết những gia tộc cao quý thời trung cổ có gia tộc của mình bắt nguồn trực tiếp đến các sei, hoặc các cận thần của các sei này. Uji là một cái tên khác được dùng để chỉ gia tộc theo phụ hệ, nhưng sau này được gộp cùng myōji trong cùng khoảng thời gian. Myōji, mang một ý nghĩa đơn giản, là từ mà một gia tộc chọn để tự gọi chính họ, đối lập với sei được ban bởi nhà vua. Trong khi myōji được tiếp tục đặt theo chế độ phụ hệ trong tổ tiên của người nam đó, bao gồm trong tổ tiên các haku (chú bác) của người nam, một người nào đó có thể được tự do hơn trong việc thay đổi myōji của bản thân người đó. Xem thêm Kabane.

Nhiều ký tự tiếng Nhật có cùng cách phát âm, vì vậy một số tên tiếng Nhật có nhiều nghĩa. Bản thân một mẫu tự kanji đặc biệt có thể có nhiều ý nghĩa và cách phát âm khác nhau. Trong một số tên gọi, các ký tự tiếng Nhật - qua việc đọc nó lên - tự "viết ra" một cái tên và không có ý nghĩa ẩn dụ gì đằng sau. Nhiều tên cá nhân Nhật Bản sử dụng lối chơi chữ.

Rất ít tên có thể dùng cho cả họ và tên riêng (ví dụ như Mayumi , Kaneko , Masuko , hoặc Arata ). Vì vậy, đối với những người quen thuộc với tên gọi trong tiếng Nhật, vấn đề về tên nào là họ và tên nào là tên riêng thường được phân định rõ ràng, bất kể tên gọi được sử dụng như thế nào. Điều này, do đó, khiến việc hai cái tên sẽ bị nhầm lẫn trở nên khó xảy ra hơn, ví dụ như khi viết (hoặc nói) tiếng Anh trong khi sử dụng thứ tự họ - tên riêng. Tuy nhiên, do sự đa dạng của âm và sự khác biệt về ngôn ngữ, một số họ phổ biến và tên nhất định có thể bị trùng hợp khi Latin hoá: ví dụ, (tên riêng) và (họ).

Tên tiếng Nhật có sự khác biệt rõ rệt so với tên người Trung Quốc thông qua việc lựa chọn các mẫu tự trong một tên và cách phát âm. Một người Nhật Bản có thể phân biệt được một cái tên Nhật Bản so với một tên Trung Quốc bằng cách nhìn vào nó. Tomozawa Akie, tác giả cuốn sách "Japan's Hidden Bilinguals: The Languages of 'War Orphans' and Their Families After Repatriation From China," nói rằng điều này tương đương với cách mà "người châu Âu có thể nói một cách dễ dàng tên gọi 'Smith' là từ tiếng Anh và 'Schmidt' từ tiếng Đức hoặc 'Victor' từ tiếng Anh hoặc tiếng Pháp và 'Vittorio' là từ tiếng Ý".

Ký tự

Tên tiếng Nhật thường được viết bằng kanji (chữ Hán), mặc dù một số tên sử dụng hiragana và thậm chí là katakana, hoặc hỗn hợp của kanji và kana. Trong khi hầu hết các tên "truyền thống" sử dụng cách đọc kanji kiểu kun'yomi (cách đọc kiểu Nhật), một số lượng lớn các tên riêng và họ cũng sử dụng cách đọc kanji kiểu on'yomi (cách đọc kiểu Hán). Nhiều tên khác sử dụng các cách đọc chỉ được sử dụng trong tên gọi (nanori), chẳng hạn như tên gọi người nữ Nozomi (). Đa số các họ bao gồm một, hai hoặc ba ký tự kanji. Ngoài ra, còn có một số lượng nhỏ họ có bốn hoặc năm ký tự kanji, như Teshigawara () và Kutaragi (), Kadenokōji (), nhưng những trường hợp này rất hiếm gặp. Âm no, chỉ sự sở hữu (giống như dấu nháy đơn trong tiếng Anh), và tương ứng với ký tự の, thường có trong tên nhưng không được viết như một ký tự riêng biệt, như trong tên gọi thường gặp 井上 (i-no-ue, giếng-(sự sở hữu)-ở trên/ở bên trên = trên miệng giếng), hoặc các nhân vật lịch sử như Sen no Rikyū.

Hầu hết các tên cá nhân sử dụng một, hai, hoặc ba ký tự kanji.

Như đã đề cập ở trên, tên riêng của nữ thường kết thúc bằng chữ 子 (tử) đọc là "ko" (こ), hoặc chữ 美 (mỹ) đọc là "mi" (み).

Việc sử dụng chữ 子 (tử) thành hậu tố -ko đã thay đổi đáng kể qua nhiều năm: trước Minh Trị Duy tân (1868), chữ này được dành riêng cho các thành viên nữ trong hoàng gia. Sau khi được phục hồi, âm này trở nên phổ biến và thường gặp một cách tràn ngập trong thời kỳ Đại Chính và đầu thời kỳ Chiêu Hòa. Hậu tố -ko càng trở nên phổ biến từ nửa sau thế kỷ XX. Khoảng năm 2006, do việc người dân bắt chước thói quen đặt tên của các nghệ sĩ nổi tiếng, hậu tố -ko trở nên ít phổ biến hơn. Đồng thời, tên gọi có xuất xứ phương Tây, viết bằng kana, đang trở nên ngày càng phổ biến trong việc đặt tên cho các bé gái.

Những khó khăn trong việc đọc tên

Khác với tiếng Trung hay tiếng Việt đọc chữ Hán theo một hoặc hai cách phát âm, tiếng Nhật đọc Kanji theo rất nhiều cách. Do vậy một tên viết bằng kanji có thể có nhiều hơn một cách phát âm thông thường, chỉ một trong số đó là đúng cho một cá nhân nhất định. Ví dụ, họ được viết bằng kanji là có thể được đọc là Tōkairin hoặc Shōji. Hay như hai chính trị gia Kan Naoto (菅 直人) và Suga Yoshihide (菅 義偉), họ của hai người viết bằng kanji là giống nhau (菅 - gian) nhưng cách đọc thì khác nhau khi một người là Kan (かん), một người là Suga (すが). Ngược lại, bất kì một cái tên nào cũng có thể có nhiều cách viết phù hợp, và một lần nữa, chỉ một trong số đó là đúng cho một cá nhân nhất định. Chữ (nhất) khi được sử dụng như là một tên cho nam giới có thể được sử dụng như cách viết của "Hajime," "Hitoshi," "Ichi- / -ichi" "Kazu- / -kazu," và nhiều tên gọi khác. Tên gọi "Hajime" (はじめ) có thể được viết với bất kỳ chữ nào sau đây: , , , , , , , , , , , , , , , , hoặc . Sự tương ứng của số lượng các cách đọc và cách viết của tên thường hay gặp với tên riêng của nam giới hơn so với họ hoặc với tên riêng của nữ giới, nhưng có thể tìm thấy được trong tất cả các loại này. Điều này có thể làm cho việc đối chiếu, phát âm, và latin hoá tên gọi tiếng Nhật trở thành một vấn đề vô cùng khó khăn. Vì lý do này, danh thiếp thường bao gồm cách phát âm của tên bằng furigana, và các hình thức và các văn bản thường bao gồm khoảng trống để viết cách đọc của tên bằng kana (thường là katakana).

Một vài tên tiếng Nhật, đặc biệt là họ, bao gồm các phiên bản cổ của các ký tự. Ví dụ, ký tự rất thường gặp shima, đảo, có thể được viết là hoặc thay cho ký tự thường gặp . Một số tên cũng có các ký tự kanji rất hiếm gặp, hoặc ký tự kanji không còn tồn tại trong tiếng Nhật hiện đại. Những người Nhật có tên gọi như vậy có thể thỏa hiệp bằng cách thay thế bởi các ký tự tương tự hoặc đơn giản hóa. Điều này có thể khó khăn cho việc nhập ký tự kanji trên máy tính, khi nhiều cơ sở dữ liệu về kanji trên máy tính chỉ bao gồm các ký tự kanji phổ biến và thường xuyên được sử dụng, và nhiều ký tự cổ hoặc không thường được sử dụng sẽ không có trong đó.

Một ví dụ về một tên như vậy là Saitō. Có hai ký tự kanji cho âm sai ở đây. Hai ký tự sai có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau: nghĩa là "đều, cùng nhau" hay "song song", nhưng mang nghĩa "làm cho thanh khiết". Những tên này cũng có thể tồn tại cách viết dưới dạng cổ, như 齊藤 và 齋藤 tương ứng.

Họ thỉnh thoảng được viết với các ký tự mang phong cách riêng, gọi là ateji, có liên quan gián tiếp đến tên được nói lên. Ví dụ, (tứ nguyệt nhất nhật) sẽ thường được đọc là shigatsu tsuitachi (しがつ ついたち, "mùng 1 tháng 4"), nhưng khi là họ thì được đọc là watanuki (わたぬき, "quần áo không độn"), vì mùng 1 tháng 4 là ngày lễ truyền thống, chuyển từ mặc quần áo mùa đông sang quần áo mùa hè. Cũng với cách như vậy, (tiểu điểu du) sẽ thường được đọc là kotori asobi ("những chú chim nhỏ chơi đùa") hoặc shōchōyū, nhưng với tên thì đọc là Takanashi, vì con chim nhỏ (kotori) chơi đùa (asobi) ở nơi không có (nashi) diều hâu (taka).

Hầu hết mọi người và các cơ quan của Nhật Bản đã chấp nhận với những tục lệ để áp dụng trong cuộc sống. Sổ địa chỉ, ví dụ, thường chứa các ký tự furigana hay ký tự phiên âm ​để làm rõ cách phát âm của tên. Công dân Nhật Bản cũng được yêu cầu phải cung cấp một tên đã latin hoá cho thị thực của họ. Việc sử dụng gần đây trong các phương tiện truyền thông Nhật Bản dùng katakana khi đề cập đến những người trong ngành giải trí Nhật Bản nổi tiếng ở tầm quốc tế đã khởi nguồn cho mốt thời thượng trong những người giao thiệp rộng, những người cố gắng tạo ra một sự tinh tế thời thượng kiểu quốc tế bằng cách sử dụng tên katakana như một huy chương danh dự. Tất cả những biến thể này cũng được tìm thấy trong các tên địa danh Nhật Bản.

Không phải tất cả các tên đều phức tạp. Một số tên thường được tóm tắt bởi cụm từ tanakamura ("ngôi làng ở giữa những cánh đồng lúa"): ba ký tự kanji: (ta, cánh đồng lúa), (naka, ở trong, ở giữa) và (mura, làng), đứng cùng nhau trong bất kì cặp nào, tạo nên một họ đơn giản, phổ biến một cách hợp lí: Tanaka, Nakamura, Murata, Nakata (Nakada), Muranaka, Tamura.

Mặc dù có những khó khăn kể trên, có đủ các mẫu và tên theo định kỳ mà hầu hết người Nhật Bản địa có thể đọc hầu như tất cả các tên gia đình họ gặp phải và đa số các tên cá nhân.

Các quy tắc

Tên kanji ở Nhật Bản được điều chỉnh bởi các luật của Bộ Tư pháp Nhật Bản về các ký tự kanji sử dụng trong tên. có 2,232 "ký tự kanji sử dụng trong tên" (jinmeiyō kanji) và "các ký tự thường được sử dụng" (jōyō kanji) được sử dụng trong các tên cá nhân, và chính phủ Nhật Bản có kế hoạch tăng danh sách này thêm 578 ký tự kanji trong tương lai gần. Đây sẽ là mức tăng lớn nhất kể từ Thế chiến II. Chỉ có ký tự kanji xuất hiện trên danh sách chính thức có thể được sử dụng trong tên riêng. Điều này nhằm đảm bảo rằng những cái tên có thể dễ dàng được viết và đọc với những người biết chữ ở Nhật Bản. Quy định cũng chi phối các tên bị coi là không phù hợp; ví dụ, năm 1993, một cặp vợ chồng định đặt tên cho con của họ là Akuma (悪魔, mà theo nghĩa đen có nghĩa là "ác ma") đã bị cấm làm như vậy sau khi xảy ra một sự phản đối công khai lớn.

Mặc dù có những quy định về việc đặt tên của trẻ em, nhiều ký tự cổ vẫn có thể được tìm thấy trong tên của người lớn, đặc biệt là những người sinh ra trước Thế chiến II. Do những hạn chế pháp lý về sử dụng ký tự kanji gây ra sự bất tiện cho những người có tên như vậy và nhằm thúc đẩy sự phổ biến của việc tương đồng giữa các tên, nhiều thay đổi gần đây đã được thực hiện để tăng chứ không phải giảm số lượng các ký tự kanji được phép sử dụng trong tên. Toà án tối cao Sapporo cho rằng sẽ là trái pháp luật đối với chính phủ nếu từ chối đăng ký tên của một đứa trẻ bởi vì nó chứa một ký tự kanji tương đối phổ biến nhưng không được đưa vào danh sách chính thức của các ký tự sử dụng trong tên được biên soạn bởi Bộ Tư pháp. Sau đó, chính phủ Nhật Bản đã ban hành kế hoạch tăng số lượng kanji "được phép" sử dụng trong tên.

Việc sử dụng khoảng trống trong tên riêng (để phân biệt phần tên đầu và tên lót) không được phép trong các tài liệu chính thức, bởi vì về mặt kỹ thuật, một khoảng trống không phải là một ký tự được cho phép. Tuy nhiên, các khoảng trống đôi khi được dùng trên danh thiếp và trong thư.

Kế hoạch tăng số lượng ký tự kanji sử dụng trong tên đã gây tranh cãi, chủ yếu là bởi vì các chữ Hán với ý nghĩa không phù hợp để sử dụng trong các tên cá nhân, như , , và , , và , nằm trong số những bổ sung đề xuất vào danh sách. Ban đầu, các ký tự kanji được thêm vào đã được chọn lọc chủ yếu bằng cách tham chiếu đến tính thường gặp và dễ viết, mà không có tài liệu tham khảo để phù hợp trong các tên cá nhân. Một ví dụ là . Sự ngăn cấm các ký tự kanji này có thể gây tranh cãi bởi vì chúng không phải là không phổ biến trong tên gia đình. Chính phủ sẽ tìm kiếm từ công chúng trước khi phê duyệt danh sách.

Phong tục

Trong thời cổ xưa, người dân Nhật Bản được coi là tài sản của Thiên hoàng và tên của họ phản ánh vai trò trong chính quyền mà họ phục vụ. Một ví dụ là Ōtomo (大友 'kẻ hầu cận tuyệt vời, người đồng hành'). Tên cũng sẽ được ban cho trong việc công nhận các thành tựu và đóng góp to lớn.

Cho tới Minh Trị Duy tân, người dân Nhật thông thường (những người không phải kuge và samurai) không có họ, và khi cần thiết, họ dùng các cụm thay thế, chẳng hạn như tên của nơi sinh của họ. Ví dụ, Ichirō sinh ở Asahi-mura (làng Asahi) ở tỉnh Musashi sẽ được nói là "Ichirō từ Asahi-mura của Musashi". Thương nhân được đặt tên theo cửa hàng hoặc thương hiệu của họ (ví dụ, Denbei, chủ sở hữu của Sagamiya, sẽ gọi là Sagamiya Denbei), và nông dân được đặt tên theo người cha của họ (ví dụ, Isuke, có cha là Genbei, sẽ gọi là "Isuke, con của Genbei"). Sau Minh Trị Duy tân, chính phủ ra lệnh cho mọi dân thường bổ sung thêm họ vào sau tên riêng của họ, như một phần của công cuộc hiện đại hoá và Tây phương hoá; điều này đã được quy định trong Luật Đăng ký Gia đình năm 1898. Đàn ông thay đổi tên của họ vì một loạt các lý do: để biểu thị rằng họ đã đạt được một địa vị xã hội cao hơn, để chứng minh lòng trung thành của họ với một đoàn thể hoặc gia tộc, để cho thấy rằng họ đã thành công với vị trí đứng đầu của một gia tộc hoặc đội ngũ, để từ bỏ bất hạnh gắn liền với một tên gọi mang điểm gở, hoặc chỉ đơn giản là để tránh bị nhầm lẫn với một người hàng xóm có tên tương tự. Nam giới trong giới thượng lưu thường thay đổi tên của họ khi đến tuổi trưởng thành (genpuku), bỏ đi tên gọi thời thơ ấu của họ (mà thường được kết thúc với -maru) và lấy một cái tên của người trưởng thành. Khi quý tộc và các samurai nhận được thăng cấp, họ nhận được những tên gọi mới, mà có thể chứa một âm tiết hoặc ký tự từ tên chúa của họ như là một dấu hiệu của sự ủng hộ.

Một người Nhật có thể sử dụng một trong nhiều tên, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh. Ví dụ, tác giả, nhà thơ, nghệ sĩ nổi tiếng thế kỷ XVIII Samuru Iwase viết dưới tên Santō Kyōden và làm việc như một họa sĩ minh họa dưới cái tên Masanobu Kitao. Nghệ sĩ và tác giả áp dụng một tên mới cho mỗi phương tiện hay hình thức họ làm việc trong, dù có hoặc không làm việc một cách chuyên nghiệp. Một số loại tên nghệ thuật ( []) đã được gọi bằng thuật ngữ đặc biệt—ví dụ, haigō hoặc haimei cho một nhà thơ haiku, và kagō cho một nhà thơ Waka. Các học giả cũng tự lấy cho mình một tên học thuật, thường là cách đọc kiểu Hán của các ký tự trong tên tiếng Nhật của họ. Những người gia nhập một trật tự tôn giáo cũng nhận một tên theo tôn giáo.

Cái chết thêm vào phần số đếm của tên của một người. Khi một người đã chết, tên cá nhân của họ được gọi là một và không còn được sử dụng. Thay vào đó, người đó được gọi bằng của họ.

Các tên riêng của Thiên hoàng Nhật Bản cũng được gọi là imina, thậm chí nếu Thiên hoàng còn sống. Trước Thiên hoàng Jomei, cụm imina của các Thiên hoàng thường rất dài và không được sử dụng. Số lượng ký tự trong mỗi tên đã giảm đi sau triều đại của Jomei.

Azana (字), được đưa ra tại genpuku (), được sử dụng bởi những người khác và một mình anh ta sử dụng tên thật của mình để tự gọi. thường được đặt tên theo địa điểm hoặc nhà ở; ví dụ, Basho, như trong tên nhà thơ haiku Matsuo Bashō (), được đặt theo tên nhà của ông, Bashō-an ().

Trong thời kỳ Mạc mạt, nhiều nhà hoạt động chống chính phủ sử dụng nhiều tên giả để che giấu hoạt động của mình với Mạc phủ. Các ví dụ là Saidani Umetarō () cho Sakamoto Ryōma (), Niibori Matsusuke () cho Kido Takayoshi () và Tani Umenosuke () cho Takasugi Shinsaku (). Nhà văn nổi tiếng Kyokutei Bakin () được biết là đã từng có nhiều hơn 33 tên gọi.

Tên chuyên nghiệp

Các nam và nữ diễn viên kịch nghệ phương Tây và Nhật Bản, danh hài, đô vật sumo, đô vật phương Tây chuyên nghiệp, và các nghệ nhân thủ công truyền thống thường sử dụng tên chuyên nghiệp. Nhiều tên sân khấu của nam và nữ diễn viên của phim và truyền hình không hề nổi bật, giống như tên cá nhân bằng tiếng Nhật thông thường, nhưng một vài cái tên tỏ ra hài hước nhưng nghiêm túc. Ví dụ, Fujiwara Kamatari () đã chọn tên của người sáng lập nói trên của gia tộc Fujiwara, trong khi tên của Hino Yōjin () nghe như hãy cẩn thận với lửa (mặc dù viết khác nhau). Nhiều nghệ sĩ hài độc thoại như bộ đôi Beat Takeshi và Beat Kiyoshi chọn một tên phương Tây khi diễn, và sử dụng tên riêng của bản thân (hay tên riêng sân khấu) cho họ. Nhà văn cũng có xu hướng trở nên thông minh về họ, ví dụ như tên Edogawa Ranpo được tạo ra theo phát âm như "Edgar Allan Poe".

Các đô vật sumo thường lấy tên gọi đấu vật - gọi là shikona ( hoặc ). Trong khi một shikona có thể là họ của chính đô vật đó, hầu hết rikishi hạng cao có một shikona khác với họ của họ. Một shikona điển hình bao gồm hai hoặc ba ký tự kanji, hiếm khi chỉ có một hoặc nhiều hơn ba ký tự. Thông thường, phần của tên xuất phát từ chủ hoặc sư phụ của đô vật, một địa danh (ví dụ như tên một tỉnh, một dòng sông, hoặc một vùng biển), tên một vũ khí, một chi tiết đặc trưng với văn hoá Nhật Bản (ví dụ như koto hoặc vải nishiki), hoặc một thuật ngữ chỉ ra tính ưu việt. Thông thường, âm waka chỉ ra một đô vật có cha cũng là đô vật sumo; trong trường hợp này, phần này mang nghĩa cấp dưới (junior). Đô vật có thể thay đổi shikona của họ, như Takahanada đã làm khi ông trở thành Takanohana () và sau đó là Takanohana (). Một ví dụ đáng chú ý là đô vật Sentoryu, mang nghĩa là chiến đấu long - con rồng chiến trận, còn là đồng âm với St. Louis, nguyên quán của anh ta.

Các geisha và các nghệ nhân thủ công và nghệ thuật như làm gốm, trà đạo, thư pháp, irezumi (nghệ thuật xăm hình) và ikebana (nghệ thuật cắm hoa) thường lấy tên chuyên nghiệp. Trong nhiều trường hợp, những tên này tới từ thầy dạy của họ. Các diễn viên kịch kabuki lấy một trong những họ truyền thống như Nakamura (), Bandō hoặc Onoe. Một số tên tuổi được thừa hưởng từ những tiền bối, chẳng hạn như trường hợp của diễn viên kịch Kabuki nổi tiếng Bandō Tamasaburō V (五代目 坂東 玉三郎 Godaime Bandō Tamasaburō) thông qua một buổi lễ đặt tên.

Tên người Nhật trong tiếng Anh và trong các ngôn ngữ phương Tây khác

Ở tiếng Anh, tên của một người Nhật còn sống hoặc vừa mới qua đời thường được trình bày với phần họ sau cùng và không có dấu trường âm gạch trên (macron). Các hình tượng lịch sử được trình bày với họ đầu tiên và với macron nếu có.

thumb|[[Momoi Haruko tại Anime Expo 2007 ở Los Angeles; thẻ tên của cô có phần đánh vần tên của mình ("Halko Momoi") với phần họ viết cuối. Trong tiếng Nhật, tên gọi của cô là 桃井はるこ (Momoi Haruko).]] Tính đến năm 2008, khi sử dụng tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác người Nhật thường cho tên của họ trong một tên có trật tự bị đảo ngược so với truyền thống của Nhật Bản, với họ đặt sau tên riêng thay vì ngược lại. Người Nhật đã tiếp nhận cách sử dụng thứ tự đặt tên trong các ngôn ngữ châu Âu như một phần của việc áp dụng các khía cạnh của văn hoá phương Tây trong thời Minh Trị, như là một phần của việc chứng minh với thế giới rằng Nhật Bản là một nước phát triển chứ không phải là một nước kém phát triển. Khi người Nhật Bản tham dự các sự kiện với cộng đồng quốc tế, như chơi bóng, người dân Nhật Bản sử dụng cách xếp tên phương Tây. Tuy nhiên vào năm 2019, khi sắp bước vào triều đại Lệnh Hòa (Reiwa), chính phủ Nhật Bản đã đề nghị thế giới viết tên thủ tướng nước Nhật là Abe Shinzo (với họ trước tên sau), nhằm giải quyết triệt để cách trình bày họ tên người Nhật nên viết theo tiếng Anh hay theo truyền thống.

Người Nhật Bản thường có các biệt danh dưới dạng rút gọn của tên thật, và họ dùng những tên này trong xưng hô với người nước ngoài. Ví dụ như "Kazuyuki" có thể tự gọi anh ta là "Kaz." Trong các ấn phẩm báo chí phổ biến, trật tự phương Tây được sử dụng.

Saeki cho biết trong năm 2001 rằng hầu hết người Nhật sử dụng thứ tự tên theo phương Tây khi viết bằng tiếng Anh, nhưng một số hình thái tu từ đã bắt đầu thúc đầy việc sử dụng thứ tự tên tiếng Nhật như một biểu hiện cho thấy Nhật Bản đã trở thành một cường quốc kinh tế lớn trong thế kỷ XX. Quyển Japan Style Sheet, một quyển hướng dẫn cho việc xuất bản các công trình bằng tiếng Anh về Nhật Bản được viết bởi SWET năm 1998, ủng hộ việc sử dụng các trình tự đặt tên tiếng Nhật càng nhiều càng tốt, bởi các dịch giả muốn quảng bá một sự nhất quán trong cách đặt tên theo thứ tự. Năm 1987, một nhà xuất bản sách giáo khoa tiếng Anh ở Nhật Bản đã sử dụng trình tự tên theo tiếng Nhật, trong khi vào năm 2001 sáu trong số tám nhà xuất bản sách giáo khoa tiếng Anh ở Nhật Bản cùng sử dụng trình tự đó. Trong tháng 12 năm 2000, Hội đồng về ngôn ngữ quốc gia của Bộ Giáo dục khuyến cáo các sản phẩm viết bằng tiếng Anh bắt đầu sử dụng thứ tự đặt tên theo tiếng Nhật bởi "điều này nói chung nhằm hướng tới mong muốn rằng tên cá nhân sẽ được trình bày và viết theo một cách đảm bảo hình thức duy nhất của chúng, ngoại trừ các tài liệu đăng ký và tài liệu khác có tiêu chuẩn cụ thể." Văn bản này khuyến nghị việc sử dung chữ viết hoa (Taro YAMADA) hoặc dấu phẩy (Taro, Yamada) để làm rõ phần nào của tên cá nhân là họ và phần nào là tên riêng. Trong một cuộc thăm dò ý kiến vào tháng 1 năm 2000 từ Vụ Văn hoá về trình tự được ưu tiên về tên tiếng Nhật trong tiếng Anh, 34.9% số người ưu tiên sử dụng trình tự theo tiếng Nhật, 30.6% ưu tiên sử dụng trình tự phương Tây, và 29.6% không ưu tiên bên nào hơn. Năm 1986, Japan Foundation đã quyết định sẽ sử dụng thứ tự đặt tên theo tiếng Nhật trong tất cả các ấn phẩm của họ. Một phát ngôn viên bộ phận xuất bản của Japan Foundation chia sẻ trong năm 2001 rằng một vài ấn phẩm của SWET, bao gồm các báo nói tiếng Anh phổ biến, tiếp tục sử dụng trình tự phương Tây. Cho đến năm 2001, tờ style sheet của cơ quan này khuyến cáo sử dụng một phong cách xếp đặt tên khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh. Ví dụ nó chủ trương sử dụng thứ tự Tây phương trong các ấn phẩm cho độc giả những người không quen thuộc với Nhật Bản, chẳng hạn như các giấy tờ cho hội nghị quốc tế.

Cũng có trường hợp ngoại lệ, người Nhật lấy vợ hay chồng lấy chồng hay vợ là người nước khác (ví dụ như Châu Âu, Mỹ) sẽ có tên nửa Nhật nửa Anh mà lấy tên họ của mình là gốc Nhật (Ví dụ như "Jenny Aomori" là người Mỹ gốc Nhật; tên đệm "Jenny" ám chỉ bố hay mẹ cô là người Mỹ mà từ "Aomori" là tên họ người Nhật).

Từ năm 2020, Chính phủ Nhật Bản quyết định sẽ sử dụng cách sắp xếp tên người Nhật Bản theo thứ tự họ trước tên sau của truyền thống Á Đông trong các văn bản chính thức được dịch ra tiếng Anh và các ngôn ngữ phương Tây khác sử dụng chữ Latin (mà tiếng Nhật gọi là Romaji), bao gồm cả tiếng Việt đang sử dụng chữ Quốc Ngữ (giống như trang tiếng Việt của NHK World-Japan đang thực hiện). Theo đó, tên của Thủ tướng Abe sẽ phải viết và đọc đúng thứ tự là "Abe Shinzo" thay cho "Shinzo Abe". Tương tự như vậy với cách viết và đọc tên cầu thủ và huấn luyện viên bóng đá như Honda Keisuke, Okazaki Shinji, Moriyasu Hajime, Miura Toshiya,... hay tên của những người Nhật Bản khác, mà hiện nay truyền thông Việt Nam đang viết và gọi bị sai ngược, do thường lấy tên từ nguồn tiếng Anh thay vì tiếng Nhật chính chủ (như VnExpress thường lấy nguồn từ Fox News, AFP, Reuters,... thay vì NHK). Việt Nam không có quy định nào bắt buộc tên người nước ngoài trong tiếng Việt phải đảo ngược dù họ tên gốc là họ trước tên sau hay tên trước họ sau, nhưng việc tên người Nhật Bản hay bị đảo ngược ở trong các văn bản tiếng Việt là do chữ viết chính của tiếng Việt hiện nay là chữ Latinh (thay vì chữ Nôm hay chữ Hán), và giới truyền thông Việt Nam hay người viết lẫn người nói quá phụ thuộc vào nguồn thông tin tiếng Anh do cùng dùng chữ Latinh, cho thấy độ tương tác trực tiếp từ tiếng Nhật sang tiếng Việt đã bị tiếng Anh chen vào và lấn át tiếng Việt ngay tại Việt Nam. Điều nay không xảy ra với tiếng Hàn và tiếng Trung (những ngôn ngữ cùng trong vùng văn hóa Đông Á với tiếng Việt và tiếng Nhật), khi chữ viết chính không phải là chữ Latinh và thông tin có sự đối chứng trực tiếp từ nguồn tiếng Nhật.

Tên tiếng Nhật trong tiếng Trung Quốc

Giống như tên người Việt và tên người Triều Tiên, tên tiếng Nhật được phát âm theo cách phát âm tiếng Trung của các Kanji (Hán tự) trong các cộng đồng nói tiếng Trung Quốc. Ví dụ, trong tiếng Quan Thoại, sẽ trở thành "Shāntián Tàiláng", trong khi sẽ trở thành "Jiūshān Yóujìfū". Kết quả là, một người Nhật Bản có thể mường tượng tên của mình qua onyomi, nhưng nếu không có hiểu biết đầy đủ về âm đọc của tiếng Trung thì sẽ không hiểu tên của anh hoặc cô ta được đọc trong tiếng Trung như thế nào.

Đôi khi, một cái tên Nhật Bản bao gồm các kokuji. Những mẫu tự kanji này giống với chữ Hán, nhưng có nguồn gốc từ Nhật Bản và không có phát âm trong tiếng Trung Quốc (giống như chữ Nôm của tiếng Việt). Ví dụ, từ komu () không hề có cách phát âm tiếng Trung Quốc. Khi gặp phải những chữ như vậy, thường thì quy tắc "" ("đọc phần ở bên nếu có, đọc phần ở giữa nếu không có phần ở bên") sẽ được áp dụng. Do đó, "" được đọc là "rù" ("Nhập") bắt nguồn từ cách đọc chữ (Nhập).

Heng Ji, tác giả của "Improving Information Extraction and Translation Using Component Interactions," đã viết rằng vì tên của Nhật Bản có độ dài "linh hoạt", có thể sẽ khó khăn cho một người nào đó để xác định một tên người Nhật khi đọc một văn bản của Trung Quốc.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
, một tên tiếng Nhật của nam, tương đương với _John Smith_ trong tiếng Anh. _Jane Smith_ tương đương sẽ là . hiện đại thường bao gồm phần đứng trước, phần đứng sau. Thứ tự
Trong tiếng Nhật, các tên gọi để chỉ đất nước Nhật Bản là **Nippon** ( ) và **Nihon** ( ), chúng đều được viết bằng kanji là ****. Trong các ngôn ngữ nước ngoài, một
**Người Nhật Bản ở Nga** tạo thành từ một phần nhỏ của cộng đồng _Nikkeijin_ trên toàn thế giới, bao gồm chủ yếu là người Nhật Bản ở nước ngoài và con cháu của họ
là một ban nhạc rock toàn thành viên nữ người Nhật Bản đến từ Osaka. Nhóm do bốn cô nữ sinh trung học thành lập vào tháng 8 năm 2006, họ biểu diễn nhạc sống
**Người Nhật Bản gốc Hoa** (hay còn gọi là **_Hoa kiều Nhật Bản_**) bao gồm những người di cư từ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Trung Hoa Dân Quốc và các triều đại
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
**Lịch sử Nhật Bản** bao gồm lịch sử của quần đảo Nhật Bản và cư dân Nhật, trải dài lịch sử từ thời kỳ cổ đại tới hiện đại của quốc gia Nhật Bản. Các
**Âm nhạc Nhật Bản** bao gồm nhiều thể loại với nhiều cách thể hiện khác nhau trong cả âm nhạc hiện đại lẫn truyền thống. Âm nhạc trong tiếng Nhật gọi là 音楽 (_ongaku_), là
là cơ quan hàng không vũ trụ và không gian quốc gia của Nhật Bản. Thông qua việc sáp nhập ba tổ chức độc lập trước đây, JAXA được thành lập vào ngày 1 tháng
phải|nhỏ|Tỷ lệ sinh và tử của Nhật Bản kể từ năm 1950. Sự sụt giảm vào năm 1966 là do đây là năm "hinoe uma" được xem là một điềm xấu của Hoàng đạo Nhật
hay NPB là cấp độ bóng chày cao nhất ở Nhật Bản. Tại Nhật, giải đấu thường được gọi là , có nghĩa là Bóng chày Chuyên nghiệp Bên ngoài Nhật Bản, nó thường được
**Sinh vật huyền thoại Nhật Bản** gồm các loài vật trong các câu chuyện thần thoại Nhật Bản, trong truyền thuyết ở Nhật Bản cho đến những câu chuyện dân gian của Nhật Bản, trong
Biển Nhật Bản **Biển Nhật Bản** hoặc "**Đông Hải**" theo cách gọi của Triều Tiên và Hàn Quốc là một vùng biển nằm ở Đông Á, biên giữa quần đảo Nhật Bản, Sakhalin, Bán đảo
**Lịch sử Hải quân Nhật Bản** bắt đầu với sự tương tác với các quốc gia trên lục địa châu Á thiên niên kỷ 1, đạt đỉnh cao hoạt động hiện đại vào thế kỷ
nhỏ|phải|Một [[bữa ăn sáng truyền thống tại một Ryokan ở Kyoto. Các món ăn bao gồm thịt cá thu nướng, _dashimaki_ (trứng tráng Nhật Bản, ở đây theo phong cách Kansai), cơm, đậu phụ trong
nhỏ|[[Tháp Tokyo (2021)]] **Quan hệ Đài Loan – Nhật Bản** có thể phân thành các giai đoạn: Trước năm 1895 khi Đài Loan thuộc quyền thống trị của chính quyền Minh Trịnh và Đại Thanh;
là một lá cờ hình chữ nhật có nền trắng với một hình tròn màu đỏ lớn (tượng trưng cho mặt trời) nằm ở chính giữa. Trong tiếng Nhật, quốc kỳ được gọi là ,
là một tổ chức cộng sản vũ trang thuộc phái cánh tả mới của Nhật Bản, do Shigenobu Fusako thành lập vào năm 1971 và giải tán vào năm 2001. Tuy có nhân sự là
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
nhỏ|phải|Bản đồ Nhật Bản sau khi sát nhập Hàn Quốc **Sự kiện Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên** ( _kankoku heigo_, ) diễn ra vào ngày 29 tháng 8 năm 1910 dựa trên "Hiệp ước
() cũng có thể gọi theo tiếng Nhật chuyển tự Latinh là **_Zainichi_** là những người Triều Tiên di cư đến Nhật Bản trước năm 1945 và trở thành công dân hoặc thường trú nhân
**Nền văn hóa Nhật Bản** từ xa xưa đã mang nhiều nét độc đáo và đặc sắc riêng. Với vị trí địa lý đặc biệt khi bao quanh hoàn toàn bởi biển và do các
**Văn học Nhật Bản** là một trong những nền văn học dân tộc lâu đời nhất và giàu có nhất thế giới nảy sinh trong môi trường nhân dân rộng lớn từ thuở bình minh
Còn được gọi là **Kidō Butai** ("Lực lượng cơ động"), là tên được sử dụng cho một hạm đội tàu sân bay chiến đấu kết hợp bao gồm hầu hết các tàu sân bay và
là một tổ chức dịch vụ công ở Nhật Bản nhằm quản lý các hoạt động liên quan đến Shogi. Liên đoàn Shogi Nhật Bản quản lý các kì thủ Shogi chuyên nghiệp từ Tứ
Bóng đá là một trong những môn thể thao phổ biến nhất ở Nhật Bản. Hiệp hội Bóng đá Nhật Bản (JFA) là cơ quan quản lý trên toàn quốc, tổ chức giải chuyên nghiệp
nhỏ|Một bữa tối kiểu Nhật nhỏ|Đồ ăn sáng kiểu Nhật nhỏ| [[Udon|mì udon tempura]] Dưới đây là **danh sách các món ăn trong ẩm thực Nhật Bản**. Ngoài gạo, món chính trong ẩm thực Nhật
nhỏ|phải|Nhà truyền giáo Nicholas McLeod đã truyền bá lý thuyết tổ tiên Nhật Bản có nguồn gốc từ [[mười chi tộc thất lạc của người Do Thái]] **Thuyết tổ tiên chung Nhật Bản-Do Thái** (_Japanese-Jewish
Tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm của Nhật Bản trong thập niên mất mát so với các thời kỳ trước. Tốc độ tăng thu nhập bình quân đầu người ở
Núi Phú Sĩ (_Fujisan_ 富士山) Nhật Bản là một đảo quốc bao gồm một quần đảo địa tầng trải dọc tây Thái Bình Dương ở Đông Bắc Á, với các đảo chính bao gồm Honshu,
**Lễ hội búp bê Nhật Bản** (**Hina matsuri **雛祭り) là ngày dành cho bé gái, tổ chức hằng năm vào ngày 3 tháng 3. Lễ hội trở thành một nét văn hóa đặc trưng độc
nhỏ|150x150px|Đền thờ Kumano Nachi là một địa điểm thờ cúng _kami_. nhỏ|150x150px|Nghi lễ tại _Takachiho-gawara_, vùng đất thánh nơi [[Ninigi-no-Mikoto (cháu của Amaterasu) xuống trần thế.]] nhỏ|150x150px|_Ontake-jinja_, a Shinto shrine on [[Ontake|Mount Ontake for the
**Ngày kính lão (_敬老の日 Keirō no Hi_)** là một ngày lễ ở Nhật Bản được tổ chức hàng năm để tôn vinh những người cao tuổi. Ngày này bắt đầu kỷ niệm từ năm 1966
**Văn hoá dân gian Nhật Bản** (hay truyền thống dân gian của Nhật Bản ) được coi là những thứ không chính thức và được người Nhật Bản thể hiện qua truyền thống truyền miệng,
**Giải đua ô tô Công thức 1 Nhật Bản 2024** (tên chính thức là **Formula 1 MSC Cruises Japanese Grand Prix 2024**) là một chặng đua Công thức 1 được tổ chức vào ngày 7
Có 291,129 họ chính thức ở Nhật Bản được xác định bằng kanji, dù nhiều họ có phát âm và viết bằng Romanji trùng nhau. Ngược lại, một số họ được viết bằng Kanji trùng
**Thuật ngữ văn học Nhật Bản** được trình bày theo thứ tự abc dưới đây là một số thuật ngữ, khái niệm, danh từ riêng thường gặp trong văn học Nhật Bản, bao gồm trong
**Tên người Việt Nam** được các nhà nghiên cứu cho rằng bắt đầu có từ thế kỷ 2 TCN và càng ngày càng đa dạng hơn, trong khi có ý kiến khác cho rằng: "sớm
| religion_year = 2018 | religion_ref = | regional_languages = | demonym = | ethnic_groups = | ethnic_groups_year = 2016 | ethnic_groups_ref = | capital = Tokyo (de facto) | largest_city = Tập tin:PrefSymbol-Tokyo.svg Tokyo
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
**Lực lượng Phòng vệ Mặt đất Nhật Bản** (tiếng Anh: _Japan Ground Self-Defense Force_, , Hán-Việt: _Lục thượng tự vệ đội_), thường được gọi tắt là **JGSDF** (, Hán-Việt: _Lục tự_), là lực lượng lục
**Lực lượng Phòng vệ Nhật Bản**, tên chính thức trong tiếng Nhật là , là lực lượng vũ trang của Nhật Bản, được thành lập căn cứ Luật Lực lượng phòng vệ năm 1954. Lực
****, sự kiện diễn ra năm 1274 và năm 1281, bao gồm những nỗ lực quân sự quy mô lớn do Hốt Tất Liệt của Đế quốc Mông Cổ tiến hành nhằm chinh phục quần
**Hệ thống địa chỉ của Nhật Bản** được sử dụng để xác định một địa điểm cụ thể tại Nhật Bản. Khi được viết bằng các ký tự tiếng Nhật, các địa chỉ bắt đầu
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
Đây là một danh sách các** gia tộc** của **Nhật Bản**. Các gia tộc cổ đại (gozoku) đề cập đến trong _Nihonshoki_ và _Kojiki_ bị mất quyền lực chính trị của họ vào trước thời
**Truyền thuyết đô thị Nhật Bản** là những câu chuyện được lưu truyền trong dân gian Nhật Bản và được cho là có thật, dù chưa có bằng chứng xác thực. Những truyền thuyết đô
**Kinh tế Nhật Bản** là một nền kinh tế thị trường tự do phát triển. Nhật Bản là nền kinh tế lớn thứ ba thế giới theo GDP danh nghĩa và lớn thứ tư theo
là một ban nhạc visual kei rock người Nhật Bản tới từ Sendai. Ra đời vào ngày 1 tháng 1 năm 2000, đội hình của nhóm gồm Yomi (hát chính), Sakito (lead guitar và hát
Dưới đây là sự kiện trong năm tại **Nhật Bản 2023**. ## Đương nhiệm ## Sự kiện ### Tháng 1 *1 tháng 1: **Bộ Nông nghiệp, Lâm nghiệp và Thủy sản (Nhật Bản) xác nhận