✨Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc

Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc

Vào đêm ngày 20–21 tháng 8 năm 1968, Liên Xô và các quốc gia trong khối Warszawa – Bulgaria, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức), Hungary và Ba Lan – tiến quân vào Tiệp Khắc để ngăn chặn Mùa xuân Praha của Alexander Dubček.

Chiến dịch này có tên mã Danube, với số lượng binh lính vào khoảng 175,000 đến 500,000 , với Romania và Albania từ chối không tham dự; khoảng 500 người Séc và Slovak đã bị thương và 108 người bị chết trong các chiến dịch. Cuộc tấn công đã hoàn tất việc ngăn chặn cải tổ và củng cố lại quyền lực của Đảng Cộng sản Tiệp Khắc. Chính sách đối ngoại của Liên Xô trong thời kỳ này còn được gọi tên là Học thuyết Brezhnev.

Bối cảnh

Từ năm 1948 phe cộng sản thân Liên Xô đã chiếm quyền kiểm soát chính phủ dân chủ và tự do Tiệp Khắc. Lãnh tụ Liên Xô Joseph Stalin đã áp đặt ý chí của ông lên những nhà lãnh đạo cộng sản nước này, và Tiệp Khắc đã được điều hành như một quốc gia theo chủ nghĩa Stalin cho đến năm 1964. Sau đó nhu cầu cải tổ kinh tế khuyến khích những cải tổ cả về mặt chính trị. Năm 1968, Alexander Dubček Tổng bí thư mới hứa hẹn các cuộc bầu cử dân chủ, đem lại quyền tự chủ lớn hơn cho Slovakia, tự do ngôn luận và tự do tôn giáo, bãi bỏ kiểm duyệt, chấm dứt hạn chế đi lại, và cải cách lớn trong nông nghiệp và công nghiệp. Dubček tuyên bố rằng ông đang mang lại "chủ nghĩa xã hội mang khuôn mặt con người."

Lo sợ của Liên Xô

Leonid Brezhnev và lãnh tụ của các nước trong Khối Warszawa lo lắng việc tự do hóa ở Tiệp Khắc, bao gồm cả việc chấm dứt kiểm duyệt và sự theo dõi về chính trị của cảnh sát mật, sẽ làm thiệt hại những lợi ích của họ. Lo sợ đầu tiên là Tiệp Khắc có thể ra khỏi khối, làm thương tổn vị trí của Liên Xô nếu có một cuộc chiến tranh xảy ra với Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO). Sự mất mát này không chỉ là kết quả của sự thiếu sót về chiều sâu của chiến lược Liên Xô, nó cũng có nghĩa là họ không thể bòn rút được gì từ cơ sở kỹ nghệ của Tiệp Khắc trong chiến tranh tương lai. Các lãnh tụ Tiệp Khắc không có ý định rời khỏi Khối Warszawa, nhưng Moskva cảm thấy là họ không biết chắc chắn ý định của Praha.

Tiến trình đàm phán

thumb|Hàng rào cản và Xe tăng Liên Xô bị bốc cháy Lãnh đạo Liên Xô ban đầu cố ngưng hay giới hạn những ảnh hưởng của các sáng kiến cải tổ của Dubček qua một loạt đàm phán. Tiệp khắc và Liên Xô đồng ý nói chuyện tay đôi được tổ chức vào tháng 7 năm 1968 tại Čierna nad Tisou, gần biên giới Slovakia–Liên Xô.

Tại buổi họp với sự tham dự của Brezhnev, Alexei Kosygin, Nikolai Podgorny, Mikhail Suslov bên phía Liên Xô và Dubček, Ludvík Svoboda, Oldřich Černík, Josef Smrkovský bên phía Tiệp Khắc, Dubček bào chữa cho chương trình của cánh cải tổ của đảng Cộng sản Tiệp Khắc (KSČ) trong khi cam kết sẽ giữ những thỏa hiệp Khối Warszawa và Comecon. Giới lãnh đạo KSČ, tuy nhiên lại chia ra thành phe cải tổ (Josef Smrkovský, Oldřich Černík, và František Kriegel) mà ủng hộ Dubček, và bảo thủ (Vasil Biľak, Drahomír Kolder, and Oldřich Švestka) mà chống lại những người cải tổ. Brezhnev quyết định thỏa hiệp. Những đại biểu KSČ xác nhận lại sự trung thành của họ đối với Khối Warszawa và hứa sẽ kiềm chế khuynh hướng chống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa sự sống lại của đảng Dân chủ Xã hội Tiệp Khắc, và kiểm soát báo chí hiệu quả hơn. Liên Xô đồng ý rút quân đội của họ (vẫn đóng ở Tiệp Khắc từ khi tập trận vào tháng 6 năm 1968) và cho phép đại hội đảng tổ chức vào ngày 9 tháng 9.

Vào ngày 3 tháng 8, đại diện từ Liên Xô, Đông Đức, Cộng hòa Nhân dân Ba Lan, Hungary, Bulgaria, và Tiệp Khắc họp tại Bratislava và ký tuyên bố Bratislava. Tuyên bố xác nhận sự trung thành không lay chuyển với Chủ nghĩa Marx–Lenin và Chủ nghĩa Vô sản Quốc tế và tuyên bố cuộc đấu tranh kiên cường chống lại ý thức hệ tư sản và tất cả các lực lượng "chống Xã hội chủ nghĩa". Liên Xô bày tỏ ý định can thiệp vào một nước Khối Warszawa nếu một hệ thống tư sản – một hệ thống đa nguyên có nhiều đảng phái chính trị đại diện cho những phái khác nhau của chủ nghĩa tư bản được thành lập. Sau hội nghị Bratislava, quân đội Liên Xô rời khỏi lãnh thổ Tiệp Khắc nhưng vẫn tập trung dọc theo biên giới nước này.

Liên Xô không hài lòng với những cuộc nói chuyện này, bắt đầu nghĩ tới những biện pháp quân sự. Chính sách của Liên Xô ép buộc những chính phủ xã hội chủ nghĩa phải đặt quyền lợi nước mình dưới quyền lợi của khối phía đông (qua những lực lượng quân sự nếu cần thiết) được biết tới như là Học thuyết Brezhnev.

NATO

nhỏ|Cảnh đám đông người biểu tình vây quanh xe tăng Liên Xô trong những ngày đầu cuộc xâm lược ở Praha Hoa Kỳ và NATO hầu như đã phớt lờ về tình trạng đang diễn tiến ở Tiệp Khắc. Trong khi Liên Xô đang lo lắng là có thể mất một đồng minh, Hoa Kỳ không có ước muốn để có được một đồng minh mới. Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Johnson đã can thiệp vào cuộc Chiến tranh Việt Nam và hầu như không có thể đánh trống triệu tập để giúp đỡ cho một xung đột có thể xảy ra ở Tiệp Khắc. Ngoài ra, ông ta cũng muốn theo đuổi một hiệp ước kiểm soát vũ khí với Liên Xô, SALT. Ông ta cần một đối tác ở Moskva để có thể đạt được một thỏa hiệp, và ông ta không muốn chỉ vì Tiệp Khắc mà hiệp định này sẽ thất bại. Vì những lý do này, Hoa Kỳ đã cho thấy rõ là họ không can thiệp cho mùa xuân Praha, cho Liên Xô toàn quyền làm theo ý thích.

Can thiệp

thumb|left|Người lính Liên Xô thumb|Bom đạn xe tăng Liên Xô – có lẽ được mang ra từ một xe tăng bị cháy. thumb|Người Tiệp Khắc mang quốc kỳ chạy ngang một xe tăng bị cháy ở Prague. Khoảng 11 giờ tối ngày 20 tháng 8 năm 1968, quân đội khối phía đông từ 4 nước khối Warszawa – Liên Xô, Bulgaria, Ba Lan và Hungary – xâm chiếm Tiệp Khắc. Tối hôm đó, 200.000 binh lính khối Warszawa và 2.000 xe tăng đã tiến vào nước này. Romania không tham dự vào cuộc xâm chiếm này, cả Albania cũng vậy, và vì vấn đề này mà nước này rút ra khỏi khối Warszawa. Việc tham dự của Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức) đã bị hủy bỏ chỉ vài giờ trước cuộc xâm chiếm.

Cuộc xâm chiếm được hoạch định và phối hợp rất tốt; cùng lúc lực lượng bộ binh vượt sang biên giới, một sư đoàn biệt cách dù Liên Xô đã chiếm phi trường Václav Havel Prague (lúc đó được gọi là phi trường Quốc tế Ruzyne) trong những giờ đầu của cuộc xâm lăng. Nó bắt đầu với một chuyến máy bay đặc biệt từ Moskva mà chở hơn 100 nhân viên mặc thường phục. Họ đã nhanh chóng chiếm được phi trường và chuẩn bị đường cho một cuộc vận chuyển bằng đường hàng không khổng lồ, các máy bay vận tải An-12 bắt đầu đáp và chất binh lính biệt cách dù được trang bị với đại pháo và xe tăng hạng nhẹ xuống.

thumb|Cư dân trên ngưỡng cửa mang theo những lá cờ Tiệp Khắc đẫm máu. Trong khi những hoạt động tại phi trường tiếp tục, các đoàn xe tăng và các nhóm đi bằng xe với súng trường tiến về Praha và các trung tâm chính khác, họ không gặp sự chống cự nào. Các lực lượng xâm lăng là từ Liên Xô được sự giúp đỡ của các nước khác từ khối cộng sản. Trong số này có 28.000 lính của quân đoàn 2 Ba Lan (1968) từ quân khu Silesian, được cầm đầu bởi tướng Florian Siwicki, và quân đội Hungary, mà rút tất cả về ngày 31 tháng 10.

Trong cuộc tấn công của các quân đội khối Warszawa, 72 người Tiệp Khắc và Slovakia bị tử thương (19 người trong số đó ở Slovakia) và hàng trăm người bị thương. Alexander Dubček đã kêu gọi đồng bào không chống cự. Ông ta bị bắt và được đưa sang Moskova cùng với nhiều đồng chí của mình. Dubček và đa số những người cải tổ được thả trở về Prague vào ngày 27 tháng 8, và Dubček được giữ chức tổng bí thư cho tới khi ông ta bị buộc phải từ chức vào tháng 4 năm 1969 theo sau cuộc nổi loạn Khúc côn cầu trên băng Tiệp Khắc (1969).

Sau cuộc xâm chiếm là một làn sóng di cư, đa số là những thành phần có học thức cao, chưa từng thấy trước giờ và ngưng lại sau một thời gian ngắn (ước lượng: 70.000 ngay lập tức, tổng cộng 300.000). Các nước Tây phương đã ít nhiều gây khó dễ khi họ nhập cư.

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Vào đêm ngày 20–21 tháng 8 năm 1968, Liên Xô và các quốc gia trong khối Warszawa – Bulgaria, Cộng hòa Dân chủ Đức (Đông Đức), Hungary và Ba Lan – tiến quân vào Tiệp
**Hiệp ước Hữu Nghị, Hợp Tác và Tương Trợ** ( - **DDSV**) là một hiệp ước phòng thủ chung được lãnh đạo bởi Liên Xô với sự tham gia của đại đa số các nước
thumb|upright|[[Khối phía Đông]] **Học thuyết Brezhnev** là một chính sách đối ngoại của Liên Xô, nói về việc giới hạn quyền chủ quyết tại các nước xã hội chủ nghĩa và quyền can thiệp, nếu
**Tiệp Khắc** (, _,_ trước năm 1990: _Československo_, ), trong khẩu ngữ còn gọi tắt là **Tiệp**, là một cựu nhà nước có chủ quyền tại Trung Âu tồn tại từ tháng 10 năm 1918,
**Cộng hòa Nhân dân Bulgaria** ( _Narodna republika Balgariya (NRB)_) là tên chính thức của nước Bulgaria xã hội chủ nghĩa tồn tại từ năm 1946 đến năm 1990, khi mà Đảng Cộng sản Bulgaria
**Mùa xuân Praha** (, ) là một giai đoạn phi Xô Viết (tự do hóa) nền chính trị tại Tiệp Khắc trong thời kỳ nước này chịu ảnh hưởng từ Liên bang Xô viết sau
**Học thuyết Sinatra** mô tả chính sách của Liên Xô dưới thời Mikhail Gorbachyov, mà đã cho phép các nước Khối Warszawa, tự giải quyết những chuyện nội bộ của mình. Vào ngày 25 tháng
**Khủng hoảng chính trị Ba Lan 1968**, ở Ba Lan còn gọi là **March 1968**, **Tháng ba Sinh viên** hay **Sự kiện Tháng ba** (), là một loạt các cuộc biểu tình của sinh viên,
**Chiến dịch tấn công Bug** là một trong 3 chiến dịch quân sự do khối Liên minh Trung tâm tổ chức nhằm vào quân đội Nga vào cuối năm 1915 trên Mặt trận phía Đông
**Lịch sử Cuba** được đặc trưng bởi sự phụ thuộc vào các cường quốc bên ngoài như Tây Ban Nha, Hoa Kỳ và Liên Xô. Đảo Cuba là nơi sinh sống của nhiều nền văn
**Chiến dịch tấn công Bucharest-Arad** (30 tháng 8 - 3 tháng 10 năm 1944), còn gọi là **Chiến dịch Rumani**, là một chiến dịch quân sự do Hồng quân Liên Xô và quân đội Rumani
nhỏ|phải|Huy hiệu áo khoác mà hầu hết các nhà hoạt động DFFG đeo vào những năm 1970. **Các nhóm NLF thống nhất** hoặc **các nhóm FNL thống nhất** (tiếng Thụy Điển: _De förenade FNL-grupperna_, viết
**Đệ nhị Cộng hòa Ba Lan**, quốc hiệu là **Cộng hòa Ba Lan** ()**,** là một quốc gia ở Trung và Đông Âu, tồn tại từ ngày 7 tháng 10 năm 1918 đến ngày 6
**Khởi nghĩa Warszawa** () là một cuộc nổi dậy diễn ra trong thế chiến thứ hai do lực lượng kháng chiến Ba Lan Armia Krajowa (**AK**) tiến hành để giải phóng Warszawa từ tay Đức
**Công quốc Warszawa** (tiếng Ba Lan: _Księstwo Warszawskie_; tiếng Pháp: _Duché de Varsovie_; tiếng Đức: _Herzogtum Warschau_; tiếng Nga: _Варшавское герцогство_, Varshavskoye gertsogstvo) là một nhà nước tại Ba Lan được thành lập bởi Napoléon
**Cộng hòa Nhân dân Ba Lan** (1952–1989), trước đây là **Cộng hòa Ba Lan** (1944–1952), là một quốc gia ở Trung Âu tồn tại như tiền thân của Cộng hòa Ba Lan dân chủ hiện
**Cộng hòa Dân chủ Đức** (**CHDC Đức** hay **CHDCĐ**; - **DDR**), thường được gọi là **Đông Đức** dựa trên việc nước này quản lý phần lãnh thổ phía Đông của Đức (để phân biệt với
**Phố cổ Warszawa** ( và thông tục là _Starówka_) là khu vực lâu đời nhất của Warszawa, Ba Lan. Nó được giới hạn bởi _Wybrzeże Gdańskie_, dọc theo sông Vistula, và bên cạnh các khu
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
**Tình trạng các đảng cộng sản Đông Âu sau Cách mạng 1989** là tình trạng của các đảng cộng sản từng cầm quyền tại các nước Đông Âu sau khi chế độ Xã hội chủ
**Cộng hòa Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư**, gọi tắt là **CHLBXHCN Nam Tư** là nhà nước Nam Tư được thành lập sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai và tồn tại
nhỏ|200x200px| Warsaw Arsenal - hiện tại nhỏ|200x200px| Nhà thờ Brygidki ở góc phố Nalewki, ở xa hơn là Warsaw Arsenal. Ở bên trái, phố Bielańska. Khoảng năm 1775. nhỏ|200x200px| Hình ảnh Arsenal. Cuộc nổi dậy
**Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa România** (), trước ngày 21 tháng 8 năm 1965 được gọi là **Cộng hòa Nhân dân România** ( (1947–1954, 1963–1965) hoặc (1954–1963)), là giai đoạn trong lịch sử România
**Cộng hoà Nhân dân Tây Ukraina** hoặc **Cộng hoà Dân tộc Ukraina** (; viết tắt ), trong một khoảng thời gian tồn tại gọi là **tỉnh miền Tây của Cộng hoà Nhân dân Ukraina** (
Tính đến ngày 31/5/2018, Giáo hội Công giáo bao gồm 3,160 khu vực thuộc quyền tài phán giáo hội, trong đó có 645 Tổng giáo phận và 2,236 Giáo phận, cũng như Đại diện Tông
**Cộng đồng các Quốc gia Độc lập** (**SNG** hay **CIS**) là các quốc gia thành viên cũ của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết, đã lần lượt tách ra để trở
phải|Bản đồ Khối phía đông 1948-1989 Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thuật ngữ **Khối phía Đông** (hay còn được gọi là **Khối Xô Viết**, **Khối Cộng sản** hoặc **Khối Xã hội chủ nghĩa**) đã
**Ryszard Siwiec** (; 7.3.1909 — 12.9.1968) là giáo viên, kế toán viên và cựu quân nhân của Armia Krajowa người Ba Lan, người đầu tiên tự sát bằng cách tự thiêu để phản đối vụ
**Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Byelorussia** (phiên âm tiếng Việt: "Bê-lô-rút-xi-a", , , viết tắt _БССР_, _Bielorusskaja Sovietskaja Socialistitchieskaja Riespublika_, BSSR hoặc đôi khi Byelorussia còn gọi là **Belorussia**) là một trong
**Ban liên lạc đối ngoại Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc**, tên gọi giản lược **Trung liên bộ** (chữ Anh: _International Department, Central Committee of CPC_, chữ Trung giản thể: 中国共产党中央委员会对外联络部 hoặc
**Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương** (, **_'; , _**') là một liên minh quân sự dựa trên Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương được ký kết vào ngày 4 tháng 4 năm
**Chiến tranh thế giới thứ hai** (còn được nhắc đến với các tên gọi **Đệ nhị thế chiến**, **Thế chiến II** hay **Đại chiến thế giới lần thứ hai**) là một cuộc chiến tranh thế
thumb|Varsovian Trumpet Call **Warszawa** (; phiên âm "Vác-sa-va"), tên chính thức là **Thành phố Thủ đô Warszawa** () là thủ đô và là thành phố lớn nhất của Ba Lan. Thành phố đô thị của
**Chiến dịch Đông Carpath** là hoạt động quân sự lớn trong Chiến tranh Xô-Đức thuộc Chiến tranh thế giới thứ hai do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào các tuyến phòng
**Cuộc xâm lược Ba Lan 1939** – được người Ba Lan gọi là **Chiến dịch tháng Chín** (_Kampania wrześniowa_), **Chiến tranh vệ quốc năm 1939** (_Wojna obronna 1939 roku_); người Đức gọi là **Chiến dịch
**Khởi nghĩa Khmelnytsky**, còn gọi là **Chiến tranh Cossack–Ba Lan**, **Khởi nghĩa Chmielnicki**, **cuộc nổi dậy Khmelnytsky**, là một cuộc nổi loạn của người Cossack diễn ra từ năm 1648 đến năm 1657 trên các
thumb **PGE Narodowy** (tên chính thức kể từ năm 2015) hoặc **Sân vận động Quốc gia** (, ) là một sân vận động bóng đá có mái che có thể thu vào ở thủ đô
nhỏ|260x260px| Một trong những tòa nhà bảo tàng **Bảo tàng khởi nghĩa Warsaw** (được đặt tên là **Bảo tàng cuộc nổi dậy Warsaw**, ), tại quận Wola của Warsaw, Ba Lan, dành riêng cho cuộc
**Chiến dịch Praha** là chiến dịch lớn cuối cùng của Quân đội Liên Xô và các đồng minh tại châu Âu trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Diễn ra từ ngày 5 đến ngày
**Alexander Dubček** (27 tháng 11 năm 1921 – 7 tháng 11 năm 1992) là một chính trị gia người Slovak và trong một thời gian ngắn là Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Tiệp
**Liên Xô** hay **Liên bang Xô viết**, tên chính thức là **Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết**, là một cựu quốc gia nằm ở phía bắc lục địa Á-Âu, tồn tại
**Giuse Ngô Quang Kiệt** (sinh ngày 4 tháng 9 năm 1952) là một giám mục Công giáo Rôma người Việt Nam, từng đảm trách nhiều vai trò quan trọng đối với cộng đồng Công giáo
**Đấu tranh nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô (Bolshevik) vào thập niên 1920** — là một quá trình sắp xếp lại quyền lực trong Đảng Cộng sản Toàn Nga của những người Bolshevik, bắt
thumb|right|[[Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Leonid Ilyich Brezhnev — giai đoạn do ông lãnh đạo nền kinh tế đình trệ, còn gọi "trì trệ"]] **Thời kỳ Trì trệ** () hay còn gọi
**Aleksandr I** (, Aleksandr Pavlovich; – ) là Sa Hoàng của đế quốc Nga từ 23 tháng 3 năm 1801 đến 1 tháng 12 năm 1825. Ông là người Nga đầu tiên trở thành Vua
**Chiến tranh Ba Lan – Ukraina**, diễn ra từ tháng 11 năm 1918 đến tháng 7 năm 1919, là cuộc xung đột giữa Cộng hòa Ba Lan thứ hai và các lực lượng Ukraina (cả
**Franz Kafka** (3 tháng 7 năm 1883 – 3 tháng 6 năm 1924) là một tiểu thuyết gia và nhà văn viết truyện ngắn người Bohemia nói tiếng Đức, được giới phê bình đánh giá
**Leonid Ilyich Brezhnev** (tiếng Nga: Леони́д Ильи́ч Бре́жнев; phiên âm tiếng Việt: **Brê-giơ-nhép**; 19 tháng 12 năm 1906 – 10 tháng 11 năm 1982) là Tổng bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản
**Trận Bzura** (hoặc **Trận Kutno** - tiếng Đức) là một trận đánh trong chiến dịch mở đầu của Chiến tranh thế giới thứ hai - Cuộc tấn công Ba Lan, diễn ra từ 9 đến
**Charles Maurice de Talleyrand-Périgord** (1754-1838) là một nhà chính trị, một nhà ngoại giao người Pháp thời cận đại. Ông nổi lên như là một nhân vật khôn ngoan, quyền biến và có ảnh hưởng