✨Các nhóm NLF Thống nhất
nhỏ|phải|Huy hiệu áo khoác mà hầu hết các nhà hoạt động DFFG đeo vào những năm 1970. Các nhóm NLF thống nhất hoặc các nhóm FNL thống nhất (tiếng Thụy Điển: De förenade FNL-grupperna, viết tắt là DFFG, thông tục là FNL-grupperna, Nhóm NLF, hoặc FNL-rörelsen, phong trào NLF và cũng có nguồn ghi tiếng Việt là Trung ương các nhóm MTDTGP DFFG đã thống trị cuộc tranh luận trong công chúng Thụy Điển về Chiến tranh Việt Nam suốt nhiều năm. Jan Myrdal đóng vai trò nổi bật trong DFFG.
Sự hình thành
Vào tháng 2 năm 1964, chi nhánh Clarté tại Stockholm đã bắt đầu một nhóm nghiên cứu về chủ đề 'Hoa Kỳ trong thế giới ngày nay'. Bo Gustafsson là diễn giả chính. Những người tham gia bao gồm Sköld Peter Matthis, Åsa Hallström và Gunnar Bylin. Lúc đầu, các nhà hoạt động Clarté tổ chức cuộc biểu tình của họ bên ngoài đại sứ quán Hoa Kỳ, nhưng ít người chú ý. Vào ngày 14 tháng 6 năm 1965, một nhóm nhỏ những người theo chủ nghĩa Clarté đã tụ tập tại Hötorget ở trung tâm Stockholm. Cuộc biểu tình đã bị cảnh sát giải tán và Sköld Petter Matthis đã bị bắt giữ. Sự kiện này và phiên tòa xét xử Matthis sau đó đã được nhiều phương tiện truyền thông đưa tin và khiến phong trào này được biết đến trên toàn quốc. Sau đó cùng năm đó, Nhóm NLF đầu tiên được thành lập.
thumb|DFFG sử dụng cùng lá cờ của [[Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam]] Các nhóm NLF sau đó bắt đầu xuất hiện ở Uppsala, Lund, Linköping, Örebro và Gothenburg, tất cả đều là những thành phố có trường đại học.
Các tổ chức cạnh tranh
DFFG không phải là phong trào đoàn kết với Việt Nam duy nhất hoặc đầu tiên ở Thụy Điển vào thời điểm đó. Vào mùa xuân năm 1965, Ủy ban Thụy Điển Việt Nam được thành lập, bao gồm các thế hệ nhà hoạt động trước đây, từ các phong trào hòa bình và phản đối hạt nhân. Năm 1966, nghị sĩ cộng sản John Takman, một trong số ít người Thụy Điển đã đến thăm Việt Nam và gặp Hồ Chí Minh nhiều lần, đã ra mắt ấn phẩm Vietnam-Press. Năm 1968, Ủy ban Thụy Điển vì Việt Nam được thành lập, kế thừa hoạt động của Ủy ban Thụy Điển Việt Nam, tổ chức Gây quỹ Quốc gia về Việt Nam và Ủy ban Hỗ trợ Hội nghị Stockholm về Việt Nam, với Gunnar Myrdal làm chủ tịch. Takman, người được coi là đại diện cho chủ nghĩa xét lại của Liên Xô, là một trong những mục tiêu tấn công hàng đầu của các chiến dịch tuyên truyền của DFFG. Khái niệm về nguyên tắc mặt trận thống nhất được mượn từ cuộc kháng chiến chống Đức Quốc xã và cuộc chiến tranh xâm lược của Nhật Bản ở Trung Quốc vào những năm 1930. Có lẽ có một số nhà hoạt động đã đọc cuốn sách của Georgi Dimitrov về mặt trận thống nhất, nhưng những gì các nhà hoạt động thực hiện trên thực tế là xây dựng một phong trào nhân dân Thụy Điển từ dưới lên, nơi các cá nhân (không phải tổ chức) là thành viên và quản lý hầu hết mọi thứ thông qua công việc tự nguyện. Nó trở thành thứ gì đó tương tự như phong trào công đoàn Thụy Điển ban đầu.
DFFG đã đưa các phương pháp phản đối chưa từng được biết đến vào chính trường Thụy Điển, chẳng hạn như các cuộc tuần hành tự phát, biểu tình ngồi và hô khẩu hiệu hung hăng. Ban đầu, điều này gây ra sự bất mãn trong số những người Thụy Điển lớn tuổi. Cảnh sát Thụy Điển chưa từng có kinh nghiệm về các cuộc diễu hành tự phát, và trong một số trường hợp đã nổ ra các cuộc đụng độ bạo lực nhỏ. Các nhà ngoại giao Hoa Kỳ bị tấn công bằng trứng, cà chua và thỉnh thoảng là surströmming. DFFG đã có lập trường kiên quyết chống lại đảng Dân chủ Xã hội Thụy Điển và chính phủ Thụy Điển, và một trong những khẩu hiệu thường xuyên nhất của phong trào này là Tage och Geijer - Lyndons lakejer ('Tage [Erlander] và [Arne] Geijer - tay sai của Lyndon [B. Johnson]'). Trong một cuộc tranh luận năm 1970 về các vấn đề đối ngoại tại quốc hội, cả Thủ tướng Olof Palme và Bộ trưởng Ngoại giao Torsten Nilsson đều gọi các nhà hoạt động DFFG là 'bọn vô lại'. Các thành viên DFFG đã gây quỹ cho FNL ở Việt Nam, ví dụ bằng cách thu thập tiền quyên góp trên đường phố và quảng trường. DFFG đã tổ chức nhiều vòng nghiên cứu và các cuộc họp công cộng, đồng thời cũng có các nhóm phát hành các bản thu âm có lời bài hát liên quan đến khẩu hiệu của phong trào. DFFG đã sản xuất một số đĩa hát, bao gồm To the Fighting Vietnam. Khi chiến tranh mở rộng sang Lào và Campuchia, DFFG cũng mở rộng nền tảng của mình để bao phủ toàn bộ Đông Dương.
DFFG là một trong những tổ chức hoạt động tích cực nhất của Thụy Điển. Nhiều cuộc biểu tình và mít tinh lớn về lịch sử Chiến tranh Việt Nam đã được tổ chức. Chiến lược của DFFG không để các cuộc biểu tình biến thành hình thức bạo lực. Vào năm 1970, một số thành viên trẻ của DFFG đã ném một vài quả trứng vào chiếc xe chở đại sứ Hoa Kỳ khi ông đến thăm thị trấn nhỏ Glanshammar. Không có ai bị thương và xe cũng không bị hư hại, nhưng đại sứ đã phàn nàn và chính phủ đã phản ứng bằng cách cho phép áp dụng một điều luật rất hiếm khi được sử dụng trong Bộ luật Hình sự. Có một cuộc tranh luận gay gắt trên các phương tiện truyền thông đại chúng, nơi những quả trứng được so sánh với bom và những người tham gia bị gọi là những kẻ vô lại trong quốc hội. Những người tham gia đã bị xét xử và phạt tiền. DFFG cho rằng chính phủ và ngành tư pháp đã phản ứng thái quá. Việc ném trứng sau đó không được lặp lại. Ban lãnh đạo DFFG kêu gọi các nhà hoạt động tránh vượt quá giới hạn được phép liên quan đến một cuộc biểu tình. DFFG đã tổ chức các tình nguyện viên, đội bảo vệ biểu tình và chuẩn bị các bài phát biểu phản đối hành động khiêu khích.
Với hơn 200 chi nhánh địa phương, DFFG cũng là một trong những phong trào quần chúng lớn nhất Thụy Điển vào thời điểm đó. Một cuộc biểu tình ở Stockholm năm 1970 đã thu hút 8.000 người tham gia. Đến năm 1973, thậm chí còn có nhiều người muốn tham gia hơn. Các cuộc biểu tình cũng được tổ chức ở các thành phố lớn. Ví dụ, sau vụ đánh bom Hà Nội năm 1973, một cuộc biểu tình ở Söderhamn đã thu hút được vài nghìn người tham gia. Söderhamn có 14.000 cư dân vào thời điểm đó.
Vào Ngày Quốc tế Lao động 1 tháng 5 năm 1972, một cuộc mít tinh chung đã được tổ chức tại Stockholm; do Nhóm Mặt trận Giải phóng Dân tộc Stockholm, Ủy ban Thụy Điển vì Việt Nam, Đảng Dân chủ Xã hội, Đảng Cánh tả - Cộng sản và KFML đồng tổ chức. Diễn giả chính tại Norra Bantorget là Nguyễn Văn Thiện, người đứng đầu phái đoàn PRG tại Hội nghị Hòa bình Paris. Khoảng 50 nghìn người đã tham gia cuộc mít tinh, khiến nó trở thành một trong những cuộc biểu tình phản chiến lớn nhất trong lịch sử Thụy Điển.
Về chủ nghĩa đế quốc xã hội Xô Viết
Nhìn chung, DFFG tránh đưa ra lập trường công khai về các vấn đề không liên quan đến Việt Nam hoặc Đông Dương. Tuy nhiên, DFFG đã lên án Sự can thiệp quân sự của Liên Xô vào Tiệp Khắc năm 1968. Nhiều thành viên của DFFG còn khá trẻ, thường chỉ khoảng 20 tuổi khi họ trở thành thành viên tích cực. Việc tích cực ủng hộ một tổ chức du kích ở Việt Nam chiến đấu bằng vũ khí chống lại sự hiện diện của Hoa Kỳ tại Việt Nam có thể gây ra căng thẳng trong quan hệ với Hoa Kỳ. Quân nhân Thụy Điển, thủ tướng, lãnh đạo đảng, và ngay cả Olof Palme trong nhiều năm đã duy trì mối quan hệ rất thân thiện với những nhân vật lãnh đạo ở Hoa Kỳ. Kể từ Thế chiến thứ II, các bộ phim Hollywood đã mô tả những anh hùng người Mỹ trong cuộc chiến chống lại Đức Quốc xã, và nhạc rock của Mỹ đã đạt đến vị thế sùng bái vào cuối những năm 1950. Đối với thế hệ sinh sau Thế chiến II, Hoa Kỳ không phải lúc nào cũng đại diện cho điều gì đó tốt đẹp, điều này thể hiện rõ trong số các thành viên của DFFG. Hoạt động điển hình của nhóm DFFG ở các địa phương là phải đứng nhiều lần trong tháng ở quảng trường, bên ngoài Systembolaget hoặc ở một nơi nào đó có nhiều người đi bộ với hộp quyên góp và biểu ngữ, bán Bản tin Việt Nam và nói về những gì đang diễn ra ở Việt Nam với bất kỳ ai quan tâm. Bởi vì có rất nhiều nhóm DFFG với nhiều thành viên tích cực trên khắp cả nước, hoạt động này đã trở thành một cách hiệu quả để tác động đến dư luận.
DFFG không bị suy yếu bởi sự kiện Khối Warszawa tấn công Tiệp Khắc năm 1968, mặc dù Liên Xô là nhà cung cấp vũ khí chính cho Bắc Việt Nam. Đến giữa mùa hè năm 1969, DFFG đã phát triển lên tới 100 nhóm địa phương. Điều này có thể được giải thích bởi thực tế là DFFG là một phần của phong trào tư tưởng chống chủ nghĩa đế quốc nói chung. Trong tài liệu nghiên cứu nội bộ của DFFG, từ "đế quốc xã hội" được sử dụng để chỉ Liên Xô.
Một số nhân vật lãnh đạo trong ban lãnh đạo DFFG cũng là thành viên của các tổ chức Clarté và KFML (sau được đổi tên thành SKP), nhưng họ luôn chỉ là một nhóm thiểu số nhỏ trong số các thành viên.
Trong năm đầu tiên của DFFG, SÄPO đã dành nhiều nguồn lực đáng kể vào việc theo dõi và ghi chép những nhân vật lãnh đạo trong các nhóm địa phương, theo dõi một số địa chỉ nhất định và nghe lén. SÄPO đã điều tra nhiều nghi ngờ khác nhau, nhưng không có cuộc điều tra nào dẫn đến việc truy tố bất kỳ cá nhân nào có liên hệ với nhóm DFFG. Những tội ác có thể chứng minh được lại quá nhỏ đến mức không cần phải truy tố. Ví dụ, DFFG đã không xin phép Cảnh sát cho một cuộc biểu tình mà sau đó đã diễn ra trong trật tự tốt đẹp. Dần dần, sự quan tâm của SÄPO đối với tổ chức này giảm đi vì không thể chứng minh được tổ chức này có bất kỳ mối liên hệ bất hợp pháp nào với thế lực nước ngoài hoặc nguồn tài trợ nước ngoài. Dần dần, yêu cầu của phong trào DFFG rằng Hoa Kỳ nên rời khỏi Việt Nam đã trở thành một ý kiến được ủng hộ rộng rãi ở Thụy Điển, thậm chí cả tại Riksdag.
Một cuộc điều tra của chính phủ về hoạt động giám sát, trong đó có DFFG, đã phát hiện vào năm 2002 rằng mức độ thực tế của mối đe dọa vẫn chưa rõ ràng và hoạt động giám sát dường như đã quá mức, sai mục đích và đôi khi là bất hợp pháp.
Vào tháng 1 năm 1973, nhóm Karlskrona FNL đã tách ra và thành lập Mặt trận Công nhân vì Đông Dương.
Chiến tranh Việt Nam kết thúc và giải tán tổ chức
Với việc ký kết Hiệp định hòa bình Paris và việc rút quân chiến đấu của Hoa Kỳ khỏi Việt Nam vào năm 1973, cường độ của công tác đoàn kết với Việt Nam đã giảm sút. Sau cuộc đảo chính ở Chile, nhiều thành viên bắt đầu định hướng lại bản thân theo hướng đoàn kết với Mỹ Latinh. Tuy nhiên, Ủy ban Chile không liên kết với KFML và cũng không đạt được sức mạnh như DFFG trong thời kỳ đỉnh cao của mình.
Sau khi FNL tuyên bố chiến thắng vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, các nhà hoạt động DFFG đã tập trung tại văn phòng đại diện Östermalm của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để ăn mừng. Ngày hôm sau, 15 nghìn người đã ăn mừng chiến thắng tại Stockholm vào ngày 1 tháng 5 năm 1975. Các sự kiện ăn mừng kéo dài những ngày sau đó, với một đêm liên hoan vào ngày 3 tháng 5 năm 1975 có phát biểu của Sara Lidman.
Năm 1977, DFFG được đổi tên thành Liên đoàn hữu nghị và đoàn kết Việt Nam - Lào (Việt Nam - Lào förbundet för vänskap och solidaritet).
DFFG xuất bản Vietnambulletinen ('Bản tin Việt Nam'), được các nhà hoạt động DFFG bán bên ngoài các cửa hàng Systembolaget và trên đường phố.
Sách Vietnam var nära : en berättelse om FNL-rörelsen och solidaritetsarbetet i Sverige 1965-1975 ('Việt Nam đã gần gũi: tường thuật về phong trào FNL và công tác đoàn kết ở Thụy Điển 1965-1975') của Åke Kilander được phát hành năm 2007. Cuốn sách được dán nhãn 'cuốn sách bàn cà phê' trong bài xã luận Svenska Dagbladet. Bản thân Kilander đã từng là một nhà hoạt động kỳ cựu của DFFG. Nội dung sách dựa trên các cuộc phỏng vấn giữa các nhà hoạt động cũ của DFFG.