✨Hồ Tông Thốc

Hồ Tông Thốc

Hồ Tông Thốc (胡宗簇; 1324-1404) là một chính trị gia và nhà sử học của Việt Nam vào thời vua Trần Nghệ Tông. Ông làm quan cho triều Trần tới chức Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ. Ông có công trong việc biên soạn các bộ sách sử như Việt Nam thế chí (01 bộ); Việt sử cương mục (01 bộ), nay đã thất lạc.

Xuất thân và sự nghiệp

Tên của ông nguyên là Hồ Tông Thốc, song sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục (gọi tắt là Cương mục) ghi là Hồ Tôn Thốc (đổi sang Tôn) do kiêng húy nhà Nguyễn. Ông người ở Sĩ Thành, Diễn Châu, nay là xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An.

Hồ Tông Thốc tuổi trẻ đã đỗ cao, có tài danh. Khi chưa nổi danh, gặp tết Nguyên tiêu, có đạo nhân là Lê Pháp Quan treo đèn đặt tiệc, mời khách văn chương đến dự làm vui. Hồ Tông Thốc nhận thiếp xin đề thơ, làm xong trăm bài thơ ngay trên bữa tiệc. Mọi người xúm lại xem, rất thán phục. Từ đấy tiếng dậy kinh sư, vì giỏi văn học nên được người đương thời kính trọng.

Dưới triều vua Trần Nghệ Tông, năm 1372, Hồ Tông Thốc được làm Hàn Lâm viện học sĩ. Trước kia Hồ Tông Thốc làm An phủ, có lấy của dân, việc bị phát giác, vua Trần Nghệ Tông thấy làm lạ hỏi ông chuyện đó. Tông Thốc lạy tạ thưa rằng: Một con chịu ơn vua, cả nhà ăn lộc trời, vua tha tội cho. Sau ông được thăng nhiều lần, năm 1386 được phong làm Hàn Lâm học sĩ phụng chỉ kiêm Thẩm hình viện sứ. Các sách Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích còn chép được mấy bài thơ như Thị ý, Đề Hạng Vương từ (2 bài), Du Động Đình họa Nhị Khê của Hồ Tông Thốc.

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, trong thời gian đi sứ Trung Quốc Hồ Tông Thốc có làm nhiều bài thơ hay, trong đó phải nhắc đến bài thơ đuổi hồn ma Hạng Vũ. Theo đó thì thói thường khi đi qua Ô Giang, nơi có đền thờ Hạng Vũ trên bờ sông, ai muốn qua sông an toàn thì phải mua hương và vàng mã để đốt cho Hạng Vũ. Nhưng Hồ Tông Thốc không mua mà cứ giục thuyền đi thẳng, đi đến giữa sông thì chợt nổi sóng gió mịt mù, thuyền như sắp lật nhưng ông không hề sợ mà còn đứng trước mũi thuyền đọc to bốn câu thơ:

Quân bất quân hề, thần bất thần.

Như hà miếu mạo tại Giang Tân.

Giang Đông tích nhật do hiềm tiểu.

Hà tích thiên tiền bách vạn càn.

Dịch nghĩa:

Vua chẳng ra vua, tôi chẳng tôi.

Trên sông đình miếu để thờ ai?

Giang Đông ngày trước còn chê nhỏ.

Tiền giấy nay sao lại cố đòi?

Ý bài thơ là Hạng Vũ là tôi nước Sở nhưng quyền uy át vua nhỏ. Lúc đánh thua Lưu Bang có người khuyên ông nên đến Giang Đông để chiêu mộ binh sĩ quay lại tranh thiên hạ với Lưu Bang nhưng ông chê Giang Đông đất hẹp, người thưa khó lập đại nghiệp nên ông quay ra tử chiến với Lưu Bang và bị chết, hành động ấy không phải hành động của người trượng phu. Bài thơ vừa dứt thì sóng gió tắt ngấm, dòng sông êm đềm trở lại. Từ đấy mọi người đi qua sông đều không phải đốt vàng mã nữa. Sau đó Hồ Tông Thốc đến thăm đền thờ Hạng Vũ và có làm bài thơ Đề Hạng Vương Từ để ca ngợi tính dũng cảm thiện chiến của ông.

Trích dẫn bài thơ Đề Hạng Vương Từ:

Đề Hạng Vương Từ

''Bách nhị sơn hà khởi chiến phong

Huề tương tử đệ nhập Quan Trung

Yên tiêu Hàm Cốc châu cung lãnh

Tuyến tán Hồng Môn ngọc đẩu không

Nhất bại hữu thiên vong Trạch Tả

Trùng lai vô địa đáo Giang Đông

Kinh doanh ngũ tại thành hà sự?

Tiêu đắc khu khu tán Lỗ Công

Dịch nghĩa:

Đề đền Hạng Vương

Non nước trăm hai nổi bụi hồng

Đem đoàn đệ tử đến Quan Trung

Khói tan Hàm Cốc cung châu lạnh

Tuyến rã Hồng Môn chén ngọc tan

Thua chạy trời xui đường Trạch Tả

Quay về đất lấp nẻo Giang Đông

Năm năm lặn lội hoài công cốc

Chỉ còn vùi nơi mộ Lỗ Công.

Qua đời và tưởng nhớ

Theo sách Đại Việt sử ký toàn thư, Hồ Tông Thốc mất năm 1404, khi ông đã 80 tuổi.

Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư bàn về sách Việt sử cương mục của Hồ Tông Thốc: Riêng có bộ "Việt sử cương mục" của Hồ Tông Thốc làm là ghi chép thận trọng mà có phương pháp, bình luận sự việc thiết đáng mà không rườm rà, cũng gần hy vọng được. Nhưng sau cơn binh lửa, sách ấy không truyền.

Tên ông được đặt cho trường Trung học Cơ sở Hồ Tông Thốc (ở xã Thọ Thành, huyện Yên Thành, Nghệ An), và đường Hồ Tông Thốc (ở thị trấn Tân Kỳ, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An).

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Hồ Tông Thốc** (胡宗簇; 1324-1404) là một chính trị gia và nhà sử học của Việt Nam vào thời vua Trần Nghệ Tông. Ông làm quan cho triều Trần tới chức Hàn Lâm học sĩ
**Hồ** (chữ Hán: 胡; bính âm: Hú, Hangul: 호; Romaja quốc ngữ: Ho) là họ của người thuộc ở vùng văn hóa Đông Á gồm Trung Quốc, Việt Nam và Triều Tiên. Tại Cộng hòa
phải|nhỏ|300x300px|Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân gian **Hình tượng con hổ** hay **Chúa sơn lâm** đã xuất hiện từ lâu đời và gắn bó với lịch sử của
**Hồ Sĩ Đống** (1739-1785), tự **Long Phủ**, hiệu **Dao Đình**; sau đổi tên là **Hồ Sĩ Đồng**, tự **Thông Phủ**, hiệu **Trúc Hiên**. Ông là nhà thơ và là đại quan nhà Lê trung hưng
**Hồ Sĩ Dương** (chữ Hán: 胡士揚; 1621 - 1681) là quan nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Ông là cháu
**Hồ Trọng Định** (sử Nguyễn chép là **Đĩnh**), tự: **Tử Tấn**, không rõ năm sinh, năm mất; là danh thần nhà Nguyễn trong lịch sử Việt Nam. ## Thân thế và sự nghiệp **Hồ Trọng
**Chiến dịch Hồ Chí Minh**, tên ban đầu là **Chiến dịch Giải phóng Sài Gòn – Gia Định**, là chiến dịch cuối cùng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong Cuộc Tổng tấn
**Thốc Phát Nục Đàn** () (365–415), gọi theo thụy hiệu là**(Nam) Lương Cảnh Vương** ((南)涼景王), là vua cuối cùng của nước Nam Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông là một trong số các con
**Hồ Quý Ly** (chữ Hán: 胡季犛; 1336 – 1407), tên chữ **Nhất Nguyên** (一元), là vị hoàng đế đầu tiên của nhà nước Đại Ngu trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi vị Hoàng
**Thốc Phát Ô Cô** () (?-399), gọi theo thụy hiệu là **Vũ Uy Vũ Vương** (武威武王), là vua khai quốc của nước Nam Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông ban đầu là một chư
**Trần Hàm** (chữ Hán: 陈咸, ? – ?), tên tự là **Phùng Nho**, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công ổn định tình hình tài
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Nhà Hồ** (chữ Nôm: 茹胡, chữ Hán: 胡朝, Hán Việt: _Hồ triều_) là một triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Hồ Quý Ly lên ngôi năm 1400 sau khi
**Hồ Ba Bể** là một hồ nước ngọt ở Thái Nguyên, Việt Nam. Đây là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất Việt Nam và là một trong một trăm hồ nước ngọt lớn nhất
**Ngũ Hồ Thập lục quốc** (), gọi tắt là **Thập lục quốc**, là một tập hợp gồm nhiều quốc gia có thời gian tồn tại ngắn ở bên trong và tại các vùng lân cận
**Họ Cá trác** (danh pháp khoa học: **_Priacanthidae_**) là một họ cá biển gồm 18 loài. Họ này theo truyền thống xếp trong phân bộ Percoidei của bộ Cá vược (Perciformes), nhưng gần đây được
**Nhà Tống** là hoàng triều cai trị Trung Quốc từ năm 960 đến năm 1279. Triều đại này được sáng lập bởi Tống Thái Tổ sau khi ông soán ngôi Hoàng đế Hậu Chu rồi
**Tống Chân Tông** (chữ Hán: 宋真宗, 23 tháng 12 năm 968 - 23 tháng 3 năm 1022), là vị Hoàng đế thứ ba của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc, trị vì
**Tống Đái công** hay **Tống Đới công** (chữ Hán: 宋戴公; trị vì: 799 TCN-766 TCN), tên **Bạch**(白) hoặc **Huy**(撝), tự **Vũ Trang**(武莊) là vị vua thứ 11 của nước Tống – chư hầu nhà Chu
**Phạm Trấn** (chữ Hán: 范镇, 1007 – 1088), tự **Cảnh Nhân**, người huyện Hoa Dương, phủ Thành Đô , quan viên, nhà sử học đời Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Về chánh trị,
**Họ người Hoa** được sử dụng bởi người Hoa và các dân tộc bị Hán hóa ở Trung Quốc Đại lục, Hồng Kông, Macau, Malaysia, Đài Loan, Triều Tiên, Singapore, Việt Nam và các cộng
**Hồ Tây** (với các tên gọi khác trong lịch sử như **Đầm Xác Cáo**, **Hồ Kim Ngưu**, **Lãng Bạc**, **Dâm Đàm**, **Đoài Hồ**) là hồ tự nhiên lớn nhất thành phố Hà Nội, hiện thuộc
**Hành chính Việt Nam thời Hồ** trong lịch sử Việt Nam phản ánh hệ thống chính quyền từ trung ương đến địa phương nước Đại Ngu từ năm 1400 đến năm 1407. Từ khi thái
nhỏ|phải|Hộ pháp Trừng Ác ở chùa Linh Ứng tại Bà Nà nhỏ|phải|Hộ pháp Khuyến Thiện ở chùa Linh Ứng tại Bà Nà **Hộ pháp** hay **Thần Tăng** (chữ Nho: 護法, sa. _dharmapāla_, pi. _dhammapāla_) theo
nhỏ|phải|Họa phẩm về một cảnh săn hổ trên lưng voi **Săn hổ** là việc bắt giữ hay giết hại hổ. Ngày nay, với các quy định pháp luật về bảo vệ loài hổ thì phạm
**Trần Dương** (chữ Hán: 陈旸, 1064 – 1128), tự Tấn Chi, người huyện Mân Thanh, địa cấp thị Phúc Châu, Phúc Kiến, quan viên, nhà lý luận âm nhạc cuối đời Bắc Tống. ## Sự
**Họ Cánh cộc** (tên khoa học **_Staphylinidae_**) là một họ côn trùng thuộc bộ bọ cánh cứng. Một số loài trong chúng có thân mình thon, dài như hạt thóc (dài 1 - 1,2 cm, ngang
**Nguyễn Phúc Thuần** (1754 - 1777, ở ngôi 1765 - 1777), hay **Nguyễn Duệ Tông**, **Định Vương** còn có tên khác là **Nguyễn Phúc Hân**, là người cai trị thứ 9 của chính quyền Chúa
**Cú đấm thọc** (_Jab_) còn có tên gọi khác như **đấm thẳng trực diện** hay **cú thọc thẳng** hay cú **đòn quai hàm** được gọi phổ biến ở Việt Nam là _đòn số 1_) là
**Khất Phục Càn Quy** () (?-412), thụy hiệu là **Hà Nam Vũ Nguyên vương** (河南武元王), là vua thứ 2 nước Tây Tần thời Ngũ Hồ thập lục quốc trong lịch sử Trung Quốc. Ông là
**Trần Thái Tông** (chữ Hán: 陳太宗 9 tháng 7 năm 1218 – 5 tháng 5 năm 1277), tên khai sinh là **Trần Cảnh** (陳煚), là vị hoàng đế đầu tiên của Hoàng triều Trần nước
**Thốc-Phát Thụ-Cơ-Năng** ( ? - 280) là một người Hà Tây Tiên Ti, là thủ lĩnh Thốc Phát Tiên Ti vào thời kỳ Tây Tấn. Sau khi tổ phụ Thốc Phát Thọ Điền qua đời,
**Thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư** hay còn gọi là **thời Minh thuộc** trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ năm 1407 khi đế quốc Minh đánh bại nhà Hồ-Đại Ngu và chấm
**Lã Quang** () (337–400), tên tự **Thế Minh** (世明), gọi theo thụy hiệu là **(Hậu) Lương Ý Vũ Đế** ((後)涼懿武帝), là hoàng đế khai quốc của nước Hậu Lương trong lịch sử Trung Quốc. Ông
**Lê Thánh Tông** (chữ Hán: 黎聖宗 25 tháng 8 năm 1442 – 3 tháng 3 năm 1497), huý **Lê Tư Thành** (黎思誠), là vị Hoàng đế thứ tư trên danh nghĩa và thứ năm trên
Trương Đạo Lăng, người sáng lập tông phái **Thiên sư Đạo** (chữ Hán: 天师道), còn gọi là **Ngũ Đấu Mễ Đạo** (五斗米道, nghĩa là "đạo Năm Đấu Gạo"), **Chính Nhất Đạo** (正一道), **Chính Nhất Minh
Sản phẩm mồi câu cá được đóng gói sau đây là thông tin chi tiết Có 3 loại Quý khách nhớ chọn khi đặt hàng ạ. - Vua chép - Rô phi đại - Tổng
**Sự kiện 30 tháng 4 năm 1975** là sự kiện Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (QGPMNVN) tiến vào Sài Gòn, dẫn tới sự sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa và chấm dứt
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Lý Anh Tông** (chữ Hán: 李英宗 tháng 4 năm 1136 - 14 tháng 8 năm 1175) là vị hoàng đế thứ sáu của nhà Lý trong lịch sử Việt Nam, trị vì từ năm 1138
**Lý Thánh Tông** hay **Lý Thánh Tôn** (chữ Hán: 李聖宗 30 tháng 3 năm 1023 – 1 tháng 2 năm 1072) là vị Hoàng đế thứ ba của hoàng triều Lý nước Đại Việt, trị
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
thumb|Toàn cảnh Hàn Lâm viện thời [[Khang Hi.]] :_Bài viết này nói về một cơ quan trong nhà nước phong kiến Á Đông thời xưa. Để tìm hiểu về các cơ quan học thuật nghiên
**Việt Nam** qua các thời kỳ, triều đại nhà nước khác nhau với những tên gọi hoặc quốc hiệu khác nhau. Bên cạnh đó, cũng có những danh xưng chính thức hoặc không chính thức
**Lê Hiến Tông** (chữ Hán: 黎憲宗 6 tháng 9 năm 1461 – 24 tháng 6 năm 1504) là vị hoàng đế thứ sáu của Hoàng triều Lê nước Đại Việt. Ông cai trị từ ngày
**Minh Thành Tổ** (chữ Hán: 明成祖, 1360 – 1424), ban đầu truy tôn là **Minh Thái Tông** (明太宗), là hoàng đế thứ ba của nhà Minh, tại vị từ năm 1402 đến năm 1424. Ông
**Bí thư trưởng Phủ Tổng thống** (chữ Hán: _中華民國總統府秘書長_, phiên âm Hán Việt: _Trung Hoa Dân Quốc Tổng thống phủ Bí thư trưởng_) là người đứng đầu Phủ Tổng thống Trung Hoa Dân Quốc, do
**Quỳnh Lưu** là một huyện cũ đồng bằng ven biển nằm ở phía đông bắc tỉnh Nghệ An, Việt Nam. ## Địa lý Huyện Quỳnh Lưu nằm ở phía đông bắc của tỉnh Nghệ An,
**Lý Cảo** (; 351 – 417), tên tự **Huyền Thịnh** (玄盛), biệt danh là **Trường Sinh** (長生), là vị vua khai quốc của nước Tây Lương trong lịch sử Trung Quốc. Trong thời gian cai
**Nguyễn Phúc Khoát** (chữ Hán: 阮福濶), hay **Nguyễn Thế Tông**, húy là **Hiểu** (chữ Hán: 曉), còn gọi là **Chúa Võ**, hiệu **Vũ vương** hay **Võ vương** (1714–1765) là vị chúa Nguyễn thứ 8 của