Trần Hàm (chữ Hán: 陈咸, ? – ?), tên tự là Phùng Nho, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công ổn định tình hình tài chính ở Tứ Xuyên sau loạn Ngô Hi.
Khởi nghiệp và thăng tiến
Hàm đỗ tiến sĩ năm Thuần Hi thứ 2 (1175), được điều làm Nội Giang huyện úy. Các viên lại trong huyện nhận hối lộ, thu thuế của dân không đều, Hàm sai sứ giải đi thông báo, yêu cầu dân tự trình bày hoàn cảnh của mình, rồi dựa vào đó mà thu thuế. Sau đó Hàm được đổi làm Tri Nam Sung huyện thuộc Quả Châu, Chuyển vận tư tích chủ quản văn tự. Gặp năm hạn hán, Thuế tư miễn hai kỳ thuế của dân nghèo , Chuyển vận sứ An Tiết cho rằng thiếu hụt kinh phí tào vận, Hàm bẩm với Tiết rằng: "Nếu lợi cho dân, làm sao không thể." Nhân đó nói: "Hiện nay tiền giấy lưu hành ở Tứ Xuyên sẽ thiếu 300 vạn, tạm đóng dấu trăm vạn, đủ để bổ vào phần thiếu hụt." Tiết nghe theo. Quân đội quen xin lạm, Hàm luôn chế tài, tướng sĩ chỉ trích, ông nói: "Đầu Hàm có thể chặt, xin lạm thì không được." Quan lại đất Thục hằng năm cưỡng bách nộp tiền lụa sống, khiến dân oán trách, Hàm bẩm với Tiết, sát hạch các khoản thu, nhờ Tiết thắt chặt mà hằng năm dân được giảm hơn 20 vạn xâu tiền thuế. Hàm được cất nhắc làm Tri Tư Châu (nay là đông bắc Giản Dương); bấy giờ hạn hán đã lâu, ông nhận chức thì lập tức xin quân đội phát hơn 2000 thạch thóc tẻ để chẩn cứu. Năm sau, Đông, Tây Xuyên đều hạn hán, 2 tư Tổng chế bàn rằng bỏ thuế cho dân sẽ gây thiếu hụt tài chính, Hàm xin đóng dấu khoản tiền giấy 109 vạn hiện chưa phát hành để bù vào, được nghe theo. Hàm cho đại tu học cung (tức Quốc tử giám), chánh tích vang dội, được đổi làm Tri Phổ Châu (nay là An Nhạc).
Trong loạn Ngô Hi
Năm Khai Hi đầu tiên (1205), biên thùy Tống – Kim trở nên căng thẳng, Tứ Xuyên tuyên phủ sứ Trình Tùng biết tài của Hàm, vời làm Chủ quản cơ nghi văn tự. Hàm gởi thư bàn rằng: không thể động binh, khuyên Tùng tìm nhân tài, rèn quân dụng; khảo xét bản đồ để nắm rõ tài nguyên, cậy nơi hiểm yếu để tính kế công – thủ; hẹn gặp mặt đại tướng để tránh tỵ hiềm nghi kỵ; quyên vàng lụa chiêu mộ tử sĩ, để kêu gọi người ở xa; nghĩ ra kế sách phá địch, thẩm tra rồi mới dùng; cái mưu ăn may lợi ích trước mắt, thì chớ thi hành. Tùng trả lời sẽ nghe theo lời Hàm, nhưng Tùng không thể làm nổi. Tuyên phủ phó sứ Ngô Hi miệt thị Tùng, điều động tướng sĩ không thèm thông báo với chủ tướng . Tùng không dám hỏi tội Hi, khiến Hàm lo lắng, lại gởi thư thuyết phục Tùng: thu nhận nghĩa sĩ 2 châu Lương, Dương về phía bắc để dùng khi cần đến; giữ nơi hiểm yếu, dựng quan, bảo, lấp đường tắt để phòng bị biến cố bất ngờ. Nhưng Tùng lại không thể làm theo. Sau đó Hàm được thăng làm Lợi lộ chuyển vận phán quan.
Ngô Hi đầu hàng nhà Kim, dâng 4 châu Quan Ngoại: Giai, Thành, Hòa, Phượng cho địch, lòng người sợ hãi. Hàm ở lại Đại An quân đôn đốc quân lương, truyền hịch cho tướng giữ thành là Dương Chấn Trọng cứu giúp dân chạy nạn, phòng bị trộm cắp, mọi người dần an định. An Bính ngầm đem việc Hi làm phản cáo giác với Hàm, ông lập tức sai người thông báo với Tùng, nhưng Tùng không tra xét. Hi cho rằng Hàm là danh sĩ ở Thục, muốn bắt giữ để uy hiếp ông nghe lệnh hắn, bèn truyền hịch gọi Hàm đến bàn việc. Hàm không đến, mà đi Lợi Châu; mới đến ngoài thành, tướng phản quân là Đô vận sứ Từ Cảnh Vọng đã xua binh vào chiếm cứ trị sở. Ngày giỗ của Tống Anh Tông, Cảnh Vọng muốn tập dàn nhạc để mở tiệc, Hàm ra sức phản đối.
Ngay khi mới rời khỏi Đại An, Hàm nói chuyện với tướng phản quân là Trử Thanh, khiến Thanh hối hận. Đến nay, Hàm muốn liên kết với Chủ quản văn tự Vương Phủ, Phúc Ngải, mưu tính giết Từ Cảnh Vọng, đốt đường sàn, cắt đứt viện binh của Ngô Hi. Nhưng Vương Phủ bỏ trốn, còn Trử Thanh thì không có tin tức, nên Hàm theo lối Chu Phường cắt tóc chịu nhục, một mình thâm nhập phản quân, hy vọng thuyết phục Hi hối cải. Gặp Hi gởi thư gấp đòi gặp mặt, Hàm một mặt đáp thư khuyên hắn ta tiếp nhận mệnh lệnh của triều đình, một mặt quay lại. Giữa đường, Hàm gặp tướng phản quân là Thống lãnh Mạnh Khả Đạo, biết Hi đã đầu hàng nhà Kim, khiến ông không còn hy vọng gì nữa; về đến Ung Châu, Hàm ở trong trướng, dùng đao cắt búi tóc (vì trước đó đã nói sẽ cắt tóc), xé màn mà chạy. Từ Cảnh Vọng bắt được Hàm ở bờ sông, Hi nghe tin giận lắm, Ngô Hiển khuyên ông ta triệu Hàm làm Chủ Vũ Hưng tự, nhân đó giết đi; nhờ An Bính ra sức cứu giúp, Hàm mới thoát chết. Sau đó bọn An Bính nổi dậy giết chết Ngô Hi và đồng bọn, Hàm dâng biểu tự hặc tội không thể dẹp giặc mà còn rời bỏ chức vụ, lại nhờ bọn An Bính, Dương Phụ cầu xin nên được miễn tội phóng thích. Ngay sau đó An Bính tâu xin cho Hàm làm Tổng Thục phú, triều đình nghe theo.
Ổn định tài chánh đất Thục
Sau loạn, kho tàng trống rỗng, Hàm đến Vũ Hưng, cùng An Bính thảo luận tình hình, đề nghị đem tài chánh của quân sự và dân sự hợp nhất mà xử lý, nhờ Bính tâu lên triều đình. Hàm xét chỗ dư thừa của các tư, dời làm gạo của các kho Thường bình, Quảng huệ , đúc tiền Đương ngũ , treo bản bán quan chức; còn tạm dừng giao nộp tiền thuế của 4 lộ lên triều đình; cắt giảm hơn 2 vạn binh kém, quy hoạch chu toàn, nên chi phí quân đội tăng thêm hơn 8750 vạn, nhưng không lấy của dân. Thuở mới Hàm làm Tổng phú, kho lẫm quân đội còn chừng hơn 1450 vạn xâu tiền, lương thực còn chừng hơn 97 vạn thạch, thức ăn gia súc còn chừng hơn 2 vạn thạch. Hàm đêm ngày siêng năng, điều độ hợp lý, chưa đến 2 năm, kho lẫm tăng thêm số tiền giấy giá trị 180 vạn, Thành Đô không lưu hành hơn 210 vạn tiền Thung bát trên thị trường (tức tiền Đương thập, mệnh giá gấp đôi tiền Đương ngũ, ý nói đẩy lùi tình trạng lạm phát), quân lương của 3 kho thóc trong thành có hơn 40 vạn thạch, vốn gạo dành để cho vay có hơn 110 vạn thạch, lại trữ riêng quân lương hơn 149 vạn thạch, thức ăn gia súc hơn 7 vạn thạch, còn vải lụa tơ bông, tiền bằng đồng, sắt, và độ điệp không tính vào.
Dân chúng Kiếm Ngoại chịu khổ vì binh dịch đã lâu, có người kiến nghị điều tráng đinh của 2 lộ Đông, Tây Xuyên và Quỳ lộ để chia vất vả với họ. Lệnh mới đưa xuống, dân các lộ sợ làm lính thú, chạy đến kêu với An Bính, xin nộp tiền thay cho binh dịch, số tiền nợ đọng dần hơn 50 vạn; nay Hàm bỏ hết. Số tiền giấy đất Thục – loại vẫn còn giá trị sử dụng – là hơn 5000 vạn , một nửa ở trong tay chánh quyền, sau loạn thì lưu tán tất cả ở trong dân; hai tư Tuyên phủ, Tổng chế in thêm 3 đợt, lưu hành hơn 8000 vạn, giá trị ngày càng giảm. Hàm bỏ ra hơn 1200 xâu tiền để thu về một nửa số tiền giấy của 19 đợt, lại cùng Bính bàn bạc góp sức của tư Trà mã , tiếp tục thu về 91 đợt, kế đó làm mới 93 đợt để trao đổi (đoái), vì thế giá trị tiền giấy được khôi phục, giá thóc giảm xuống.
Dòng chảy sông Gia Lăng chợt yếu đi, có ý kiến cho rằng người Kim chặn thương du, Hàm không nói gì, khơi thông lòng sông tại chỗ, khiến nước chảy từ ích Xương đến Ngư Lương, không còn bị ngăn trở. Hàm lại gởi thêm gạo cho Kim Châu để làm đầy kho dự trữ, có người hỏi: "Kim Châu hiểm yếu, người Kim không thể nhắm đến, sao lại thêm gạo?" Hàm đáp: "Địch đến mới lo, sao kịp nữa?" Ít lâu sau, quân Kim xâm phạm Thượng Tân, quân Tống dựa vào sự chuẩn bị ấy mà giữ vững.
Hàm được triệu về làm Tư nông thiếu khanh, rồi mất. An Bính nhiều lần tâu lên công lao của Hàm, nên ông được ban thụy là Cần Tiết.
Gia đình
Hàm là con thứ của Trần Thăng Khanh, làm đến Giám sát ngự sử, nhưng được kế tự chú là Trần Cự Khanh. Tuyên dụ sứ Ngô Liệp từng dâng biểu khen ngợi tiết nghĩa của Hàm, nên có chiếu cho ông được tiến 2 trật, Hàm xin tặng lại cho cha mẹ.
Con trai Hàm là Trần Dần, sử cũ có truyện.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Trần Hàm** (chữ Hán: 陈咸, ? – ?), tên tự là **Phùng Nho**, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông có công ổn định tình hình tài
**Trần Dần** (chữ Hán: 陈寅, ? – 1227), không rõ tên tự, người huyện Thiệp , quan viên nhà Nam Tống. ## Cuộc đời Cha là Bảo Mô các đãi chế Trần Hàm. Dần hai
**Trần Hùng Nam** (sinh 1954) là sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Thiếu tướng, Tiến sĩ, nguyên Cục trưởng Cục Xe-Máy, Tổng cục Kỹ thuật (2008-2014) ## Thân thế
**Trần Hàm** (chữ Hán: 陈咸, ? – ?), tên tự là **Tử Khang**, người huyện Hào, quận Bái , là quan viên nhà Tây Hán trong lịch sử Trung Quốc. ## Thời Hán Nguyên đế
Các hướng tiến công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mở đầu Chiến dịch Nguyễn Huệ **Mặt trận Đông Nam Bộ năm 1972** là một trong các chiến trường quan trọng trong Chiến
**Trần Nhật Duật** (chữ Hán: 陳日燏, 1255 – 1330), được biết qua tước hiệu **Chiêu Văn vương** (昭文王) hay **Chiêu Văn đại vương** (昭文大王), là một nhà chính trị, quân sự Đại Việt thời Trần.
**Trần Duệ Tông** (chữ Hán: 陳睿宗, 30 tháng 6 năm 1337 – 4 tháng 3 năm 1377) tên thật là **Trần Kính** là vị hoàng đế thứ 10 của triều đại nhà Trần trong lịch
**Trần Việt** (chữ Hán: 陈越, 973 – 1012), tự Tổn Chi, người huyện Úy Thị, phủ Khai Phong , quan viên, nhà thơ phái Tây Côn thể đời Bắc Tống. ## Cuộc đời Ông nội
**Trần Minh Tông** (chữ Hán: 陳明宗 4 tháng 10 năm 1300 – 10 tháng 3 năm 1357) tên thật là **Trần Mạnh** (陳奣), là vị hoàng đế thứ năm của Hoàng triều Trần nước Đại
**Trần Nghệ Tông** (chữ Hán: 陳藝宗) (20 tháng 12 năm 1321 – 6 tháng 1 năm 1395), tên húy là **Cung Định Vương Trần Phủ** (陳暊) hoặc **Trần Thúc Minh** (陳叔明), xưng hiệu **Nghệ Hoàng**
**Mặt trận Miến Điện** là một loạt các trận đánh và chiến dịch diễn ra tại Miến Điện (ngày nay là Myanmar). Là một phần của Mặt trận Đông Nam Á trong Thế chiến 2,
**Chiến dịch Xuân Lộc** hay **Trận Xuân Lộc**, tên đầy đủ là **_Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh_**, là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch
**Trần Tĩnh** (chữ Hán: 陳靖, 948 – 1025), tên tự là **Đạo Khanh**, người huyện Phủ Điền, quân Hưng Hóa , là quan viên nhà Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông được sử
**Đế quốc Việt Nam** (chữ Hán: ; , cựu tự thể: , chuyển tự _Etsunan Teikoku,_ tiếng Pháp: Empire du Viêt Nam) là tên gọi chính thức của một Nhà nước Việt Nam thân Nhật
**Trần Dương** (chữ Hán: 陈旸, 1064 – 1128), tự Tấn Chi, người huyện Mân Thanh, địa cấp thị Phúc Châu, Phúc Kiến, quan viên, nhà lý luận âm nhạc cuối đời Bắc Tống. ## Sự
**Tống Cao Tông** (chữ Hán: 宋高宗, 12 tháng 6 năm 1107 - 9 tháng 11 năm 1187), tên húy là **Triệu Cấu** (chữ Hán: 趙構), tên tự là **Đức Cơ** (德基), là vị Hoàng đế
**Trương Tuấn** (chữ Hán: 張浚, 1097 – 1164), tên tự là **Đức Viễn**, hiệu là **Tử Nham cư sĩ**, người Miên Trúc, Hán Châu , là Ngụy Trung Hiến công, tể tướng nhà Nam Tống,
**Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam** là đội tuyển bóng đá quốc gia đại diện cho Việt Nam thi đấu tại các giải đấu bóng đá quốc tế do Liên đoàn bóng đá
**West Ham United Football Club** là một câu lạc bộ bóng đá chuyên nghiệp Anh đặt trụ sở tại vùng phía đông thành phố Luân Đôn, thủ đô nước Anh. West Ham United đã 3
nhỏ|[[Đồ thị của hàm số (màu đen) và tiếp tuyến của nó (màu đỏ). Hệ số góc của tiếp tuyến bằng đạo hàm của hàm đó tại tiếp điểm (điểm được đánh dấu).]] Trong toán
**Đường Đức Tông** (chữ Hán: 唐德宗; 27 tháng 5, 742 - 25 tháng 2, 805), húy **Lý Quát** (李适), là vị Hoàng đế thứ 10 hay thứ 12 của nhà Đường trong lịch sử Trung
nhỏ|300x300px|Bản đồ miêu tả chiến tranh Kim–Tống **Chiến tranh Kim – Tống** là một loạt các cuộc xung đột giữa nhà Kim (1115–1234) của người Nữ Chân và nhà Tống (960–1279) của người Hán. Năm
**Chương Hàm** (章邯, ? – 205 TCN) là tướng cuối thời nhà Tần, đầu thời Hán Sở trong lịch sử Trung Quốc. Ông phục vụ dưới quyền Tần Nhị Thế và Sở Bá vương Hạng
**Nhà Trần** (chữ Nôm: 茹陳, chữ Hán: 陳朝, Hán Việt: _Trần triều_) là một triều đại quân chủ cai trị nước Đại Việt từ năm 1226 đến năm 1400. Đây là triều đại được lưu
**Tống Thái Tông** (chữ Hán: 宋太宗, 20 tháng 11 năm 939 - 8 tháng 5 năm 997), tên húy **Triệu Quýnh** (趙炅), là vị Hoàng đế thứ hai của triều đại Bắc Tống trong lịch
**Đường Túc Tông** (chữ Hán: 唐肃宗; 21 tháng 2, 711 - 16 tháng 5, 762), tên thật **Lý Hanh** (李亨), là vị Hoàng đế thứ 8, hay thứ 10 của nhà Đường trong lịch sử
**Đường Văn Tông** (chữ Hán: 唐文宗; 20 tháng 11, năm 809 - 10 tháng 2, năm 840), tên thật **Lý Ngang** (李昂), là vị Hoàng đế thứ 15 hay 17 của triều đại nhà Đường
**Tống Thái Tổ** (chữ Hán: 宋太祖, 21 tháng 3, 927 - 14 tháng 11, 976), tên thật là **Triệu Khuông Dận** (趙匡胤, đôi khi viết là **Triệu Khuông Dẫn**), tự **Nguyên Lãng** (元朗), là vị
**Bóng đá tại Việt Nam** do Liên đoàn bóng đá Việt Nam (VFF) điều hành. Liên đoàn quản lý các đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam bao gồm các đội tuyển nam và
**Tống Huy Tông** (chữ Hán: 宋徽宗, 2 tháng 11, 1082 – 4 tháng 6, 1135), là vị Hoàng đế thứ tám của triều đại Bắc Tống trong lịch sử Trung Quốc. Ông trị vì từ
Tông Nhân phủ của [[nhà Nguyễn, tọa lạc trên phần đất của công viên Nguyễn Văn Trỗi ngày nay.]] **Tông Nhân phủ** (chữ Hán: 宗人府, pinyin: Zōngrén Fǔ; wade-Giles: Tsung-jen Fu; tiếng Anh: Court of
**Trần Việt Tân** (sinh năm 1955) nguyên là một tướng lĩnh Công an nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng. Ông nguyên là Thượng tướng, Ủy viên Đảng ủy Công an Trung ương, Tổng cục
Chiến tranh giữa hai nước Tống–Kim diễn ra vào cuối năm 1161, được phát động bởi Kim đế Hoàn Nhan Lượng. Cuộc chiến này thường được gọi là **trận Thái Thạch** (, _Thái Thạch chi
**Cuộc vây hãm Dubrovnik** (, Опсада Дубровника) là một cuộc giao tranh quân sự giữa Quân đội Nhân dân Nam Tư (tiếng Serbia-Croatia: _Jugoslovenska Narodna Armija_, JNA) với lực lượng người Croat bảo vệ thành
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
**Trần Đại Quang** (12 tháng 10 năm 1956 – 21 tháng 9 năm 2018 Bí thư Đảng ủy Công an Trung ương và Trưởng Ban Chỉ đạo Tây Nguyên từ 2011 đến 2016. Trần Đại
**Trận công hãm Đức An** (, _Đức An chi chiến_) là một trận đánh công thành giữa quân nổi dậy do Lý Hoành (李橫) chỉ huy với quân triều đình nhà Tống diễn ra vào
**Trận Caen** là một trận đánh trong trận Normandie lớn hơn giữa quân đội Vương quốc Anh mà ở đây cụ thể là Tập đoàn quân số 2 và Cụm Tập đoàn quân Tây (Tiếng
**Trận Stalingrad** (23 tháng 8 năm 19422 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa Đức Quốc xã cùng với các nước thuộc địa và Hồng quân
**Trận Poltava** (, ), còn gọi là **Trận đánh Pultowa**, là trận đánh lớn diễn ra vào ngày 27 tháng 6 năm 1709 theo lịch Julius giữa hai đoàn quân hùng hậu: Quân đội Nga
**Trần Thúc Bảo** (, 553–604, trị vì 582–589), thường được biết đến trong sử sách là **Trần Hậu Chúa** (陳後主), thụy hiệu **Trường Thành Dương công** (長城煬公), tên tự **Nguyên Tú** (元秀), tiểu tự **Hoàng
**Nhà Lưu Tống** (; 420-479) là triều đại đầu tiên trong số bốn **Nam triều** ở Trung Quốc, tiếp theo sau nó là nhà Nam Tề. ## Quốc hiệu Triều đại này do Lưu Dụ
**Phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam** nhằm mục tiêu giành lại độc lập cho Việt Nam bắt đầu từ năm 1885 và kết thúc sau Chiến tranh thế giới thứ hai, khi Đảng
**Tống Lý Tông** (chữ Hán: 宋理宗, 26 tháng 1 năm 1205 - 16 tháng 11 năm 1264), thụy hiệu đầy đủ **Kiến Đạo Bị Đức Đại Công Phục Hưng Liệt Văn Nhân Vũ Thánh Minh
**Trận Hồng Cúm**, từ ngày 31 tháng 3 đến 7 tháng 5 năm 1954, là trận đánh quan trọng của chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục tiêu của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong
Nấm linh chi Hàn Quốc là một dược liệu quý mà con người từ xa xưa đã biết dùng làm thuốc có thể dùng lâu dài với số lượng lớn mà vô hại.… Nấm linh
**Đường cao tốc Bắc – Nam phía Đông** (ký hiệu toàn tuyến là **CT.01**) là tên gọi thông dụng nhất của một tuyến đường cao tốc thuộc hệ thống đường cao tốc của Việt Nam
**Nam Định** là một tỉnh cũ nằm ở phía Nam Đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Năm 2023, Nam Định là đơn vị hành chính Việt Nam đứng thứ 13 về số dân, xếp thứ
**Trần Quang Khải** (chữ Hán: 陳光啓; 24 tháng 08 năm 1241 – 26 tháng 7 năm 1294), hay **Chiêu Minh Đại vương** (昭明大王), là một nhà chính trị, quân sự, tôn thất hoàng gia Đại