✨Hàn lâm viện
thumb|Toàn cảnh Hàn Lâm viện thời [[Khang Hi.]]
:Bài viết này nói về một cơ quan trong nhà nước phong kiến Á Đông thời xưa. Để tìm hiểu về các cơ quan học thuật nghiên cứu thời hiện đại cũng được gọi là "Viện hàn lâm", xem bài Học viện.
Hàn lâm viện (翰林院, Hànlínyuàn) là một tổ chức trong các triều đại quân chủ Á Đông xưa gồm các học sĩ uyên thâm Nho học, văn hay chữ tốt, chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình như chiếu, chỉ, sắc, dụ, chế.
Quan viên của Hàn lâm viện cũng là nguồn nhân lực cung cấp cho Quốc sử quán trong việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ. Ngoài ra, Hàn lâm viện cùng với các cơ quan học thuật khác đảm nhiệm trọng trách nghiên cứu, giảng dạy kinh truyện, phụ trách việc khoa cử, thị tùng văn học, và khi cần, đảm nhận trách nhiệm Khâm sai. Hàn lâm viện và Quốc tử giám (tức trung tâm giáo dục giữ trọng trách đào tạo nhân tài cho quốc gia) là hai cơ quan học thuật rất được trọng vọng trong quan chế triều đình xưa.
Tên gọi
Hàn lâm
Theo sách Dật Châu Thư, quyển sách ghi chép biên niên sử triều Tây Chu Trung Hoa, Hàn nguyên là danh từ Đại Hàn, được dùng để chỉ về một giống gà thần Thiên Kê có lông đỏ 5 màu do người Thục cống nạp cho Chu Thành Vương. Về sau, danh từ Hàn còn có nghĩa là lông chim dài và cứng, tức bút viết vì thời xưa bút viết được làm từ những lông chim dài và cứng. Danh từ Lâm nghĩa là rừng. Hàn Lâm (翰林) nghĩa đen là rừng bút với nghĩa bóng chỉ văn đàn, học thuật. Hàn lâm viện có ý nghĩa là viện học thuật, nơi văn đàn mà các học sĩ tụ họp.
Hàn lâm viện còn được biết đến với tên là Ngọc Đường hoặc Ngọc Đường viện do từ tích vua Tống Thái Tông (976-978) viết bốn chữ màu trắng là Ngọc Đường chi thự (玉堂之署, Jade Hall Office) trên tấm lụa hồng ban tứ cho Hàn lâm học sĩ Tô Dịch Giản.
Tên chức Hàn lâm hay Hàn lâm viện
Trong các bài viết hoặc sách vở, khi viết về một vị quan Hàn lâm, chức thường được viết tắt là Hàn lâm + tên chức vụ như Hàn lâm học sĩ (翰林學士) hoặc Hàn lâm thị độc (翰林侍讀) dùng trong câu như "quan Hàn lâm học sĩ, quan Hàn lâm thị độc, hoặc quan Hàn lâm hiệu lý".
Thời Minh, khi các Trực học sĩ viện tại các học viện khác được bổ vào Hàn lâm viện, chức Trực học sĩ được đổi thành chức Trực học sĩ viện (直學士院, Auxiliary Hanlin Academician).
Nhưng trong sách sử Việt, ngoại trừ một vài trường hợp viết như trên, phần lớn chức trong Hàn lâm viện đều được viết với tên đầy đủ là Hàn lâm viện + tên chức vụ ví dụ Hàn lâm viện học sĩ (翰林院學士) hoặc Hàn lâm viện kiểm thảo (翰林院檢討), ví dụ Hàn lâm viện Biên tu Phan Huy Chú. Vì vậy, trong tiếng Việt văn nói, ta có thể viết hoặc nói "quan Hàn lâm Biên tu Phan Huy Chú", nhưng trong văn viết, nhất là khi viết về sử Việt từ thời Hồng Đức trở về sau, cần viết cùng chữ viện, như dùng trong câu "Phan Huy Chú được phong chức Hàn lâm viện biên tu" hoặc "quan Hàn lâm viện Biên tu là Phan Huy Chú...".
Ngoài ra, trong sách báo, đôi khi danh từ "Hàn lâm học sĩ" được dùng để chỉ chung tất cả các quan viên đương hoặc trước đây được sung vào Hàn lâm viện. Việc này có thể gây khó khăn trong việc nghiên cứu, tìm hiểu vì danh từ Hàn lâm học sĩ còn là một chức đã tồn tại, rồi lại bị bãi bỏ, rồi lại được phục hồi trong các triều đại Việt Nam. Ví dụ như trong câu "...có bề tôi cũ của họ Mạc là Hàn lâm học sĩ Nguyễn Thì Dự" có thể gây ngộ nhận Nguyễn Thì Dự được bổ chức Hàn lâm học sĩ thời Mạc nhưng thời này Hàn lâm viện mô phỏng biên chế thời Hồng Đức, nên không có chức vị Hàn lâm học sĩ. Vì vậy, khi nghiên cứu về thời Mạc, câu văn trên có thể dẫn đến ngộ nhận đây là câu văn chứng minh thời Mạc đặt chức Hàn lâm học sĩ, khác với thời Hồng Đức về sau. Để tránh sự ngộ nhận, nếu viết để đại khái cho độc giả biết vị quan đương hoặc trước đây được sung vào Hàn lâm viện mà không biết rõ là chức gì, cần tránh dùng danh từ Hàn lâm học sĩ như trên, mà nên dùng câu ví dụ như "có bề tôi cũ của họ Mạc là thuộc viên Hàn lâm viện Nguyễn Thì Dự", hoặc nếu biết rõ tên chức "có bề tôi cũ của họ Mạc là Hàn lâm viện thị độc Nguyễn Thì Dự ", hoặc nếu chỉ chung các vị học sĩ thuộc Hàn lâm viện, dùng "...là các quan học sĩ thuộc Hàn lâm viện", tránh dùng "...là các Hàn lâm học sĩ thời..." để tránh việc ngộ nhận sau này khi bài viết, sách báo được dùng để tham khảo. Dùng Hàn lâm học sĩ như một danh từ thậm xưng để độc giả hiểu vị quan ấy là học sĩ thì không cần thiết vì Hàn lâm viện vốn đã là chốn văn đàn của các học sĩ.
Ngộ nhận
Ngộ nhận về Hàn Lâm
Ngày nay, khi nói hoặc viết về danh từ Hàn lâm tại các triều đại quân chủ Á Đông xưa, Hàn lâm thường được hiểu là một danh từ dùng để chỉ Hàn lâm viện tức nhóm văn đàn trong triều đình gồm các quan Hàn lâm học sĩ là những vị quan văn hay chữ tốt, uyên thâm kinh truyện, chuyên soạn thảo văn kiện triều đình. Tuy vậy, trong rất nhiều những bài viết, sách, hoặc thảo luận hiện thời, Hàn lâm còn được biết đến là danh từ để chỉ những chức quan tầm thường, như hầu trà, bói toán, y sĩ, v.v. Đây là một ngộ nhận.
Thật ra, từ khi bắt đầu được dùng vào những năm 700 thời Đường, danh từ Hàn lâm thường được hiểu là một danh từ dùng để chỉ các chức vụ, cơ quan với ý nghĩa là các thuộc viên hoặc người giữ chức Hàn lâm có trình độ cao hoặc có tay nghề chuyên môn uyên thâm, dù các chuyên môn này có thể không liên quan đến văn học, nghệ thuật, kinh truyện. Vì lý do trên mà tên Hàn lâm còn được gắn trước các chức không thuộc văn học như Hàn lâm y khoa viện (翰林醫官院, Medical Institute). Năm Khai Nguyên 26 (738), vua Đường Huyền Tông lệnh đặt Hàn lâm viện với các Hàn lâm học sĩ để phân biệt với các hạng Hàn lâm hoặc học sĩ khác. Hàn lâm học sĩ là các vị học sĩ văn hay chữ tốt, uyên thâm kinh truyện, chuyên soạn thảo văn kiện triều đình, không liên quan đến các chuyên ngành khác như y dược, bói toán, binh bị, v.v. Danh từ Hàn lâm với ý nghĩa uyên thâm kinh sách, văn hay chữ tốt thường được hiểu ngày nay là chức Hàn lâm học sĩ này.
Ngoài ra, thời Tống, Hàn lâm viện còn được biết là cơ quan chuyên trách các thú vui tao nhã triều đình (xem thêm tại mục Lịch sử - thời Tống). Việc này đã gây nên ngộ nhận Hàn lâm không còn là nơi văn đàn với các Hàn lâm học sĩ uyên thâm. Đây lại là một ngộ nhận khác. Thời Tống, Hàn lâm viện (翰林院, Artisans Institute) thuộc Nội sử sảnh (內侍省, Department of Service) không liên quan đến Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) thuộc Học sĩ viện (學士院, Institute of Academicians). Các vị Hàn lâm học sĩ thời Tống thuộc về Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) thứ 2 này.
Ngộ nhận về Học Sĩ
Trái lại với ngộ nhận về Hàn Lâm, danh từ Học sĩ lại được hiểu là danh từ chỉ giới hạn trong Hàn lâm viện. Đây là một ngộ nhận. Học sĩ nguyên là danh từ đã được đặt thời Chiến Quốc, khi nước Tề triệu tập các học giả giảng dạy học trò, thảo luận học thuật, tham gia chính sự. Thời Ngụy Tấn, triều đình triệu tập những quan có học vấn cao để định chế điển lễ, biên soạn quốc sự, thực lục, gọi chung là Học sĩ. Năm Khai Nguyên 26 (738), vua Đường Huyền Tông lệnh đặt Học sĩ viện để điều hành các quan học sĩ, nhưng đồng thời, lập riêng Hàn lâm viện là tổ chức gồm các học sĩ thật uyên thâm trong triều đình, chuyên soạn thảo các văn kiện quan trọng, khác với các chức học sĩ khác do Học sĩ viện điều hành. Vì vậy, danh từ Học sĩ bao gồm cả Hàn lâm học sĩ tại Hàn lâm viện lẫn các chức học sĩ khác như Tường chính học sĩ (詳正學士, Academician Editor) tại Hoằng văn quán (弘文館, Institute for the Advancement of Literature). Tất cả các chức học sĩ đều liên quan đến việc soạn thảo văn kiện triều đình và có các cấp bậc khác nhau. Riêng Hàn lâm học sĩ chuyên trách việc soạn thảo văn kiện quan trọng trong triều đình. Hàn lâm học sĩ là một chức vụ chưởng quan như thời Minh, Thanh hoặc là nhóm học sĩ đứng đầu Hàn lâm viện với các thuộc quan Trực học sĩ, Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị thư học sĩ, Tu soạn, Biên soạn, v.v. Các học sĩ khác ngoài Hàn lâm học sĩ được sử dụng trong Trung thư sảnh (中書省, Secretariat), Tập hiền viện (集賢院, Academy of Scholarly Worthies), Chiêu văn quán (昭文館, Institute for the Glorification of Literature) hoặc các bộ như Binh bộ phụ trách việc soạn thảo văn thư.
Tại các triều đại Trung Hoa, trong quan chế Hàn lâm viện, Học sĩ là một hàm cao quý nên một chức được gắn hàm Học sĩ cao quý hơn chức không được gắn hàm này và có thể có phẩm trật cao hơn. Ví dụ, chứcThị độc học sĩ (侍讀學士, Academician Reader-in-waiting) là chức cao quý hơn Thị độc (翰林, Reader-in-waiting). Tại các triều đại Việt Nam, trước thời Hồng Đức, việc phong hàm Học sĩ được áp dụng tương tự như tại Trung Quốc. Từ thời Hồng Đức (1470) đến thời Nguyễn Minh Mạng (1820), chức Học sĩ được bãi bỏ như Hàn lâm học sĩ thừa chỉ được đổi thành Hàn lâm thừa chỉ, mặc dù vẫn thấy trong sử Việt có 1 lần nhắc đến chức này thời chúa Trịnh
Hàn lâm viện xưa và nay
Tại các triều đại quân chủ Á Đông xưa, với Nho giáo là rường cột trong thể chế chính trị quốc gia, Hàn lâm viện là chốn văn đàn tượng trưng cho tinh hoa Nho học toàn quốc. Vì vậy, Hàn lâm viện tại các triều đại này là một tổ chức Nho học với các quan Hàn lâm uyên thâm kinh truyện, Tứ thư, văn hay chữ tốt chuyên trách việc soạn thảo văn kiện triều đình, phụ trách việc biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ, giảng dạy kinh sử cho vua, hoàng tử và triều đình, là mẫu quan viên mà mọi tầng lớp trong xã hội xưa đều trọng vọng. Các lãnh vực khác như thiên văn, y tế, khoa học, kỹ thuật thường do các viện hoặc các cơ quan chuyên môn khác chuyên trách.
Ngày nay, cùng với việc Nho giáo không còn là rường cột tại các quốc gia Á Đông và với các thể chế chính trị, giáo dục khác nhau, Hàn lâm viện không còn là nơi chuyên trách việc soạn thảo văn thư, biên soạn quốc sử. Danh từ Hàn lâm ngày nay còn được dùng để chỉ các hiệp hội khoa học, có thể bao gồm hoặc không bao gồm văn học như Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia Hoa Kỳ, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, hoặc các viện như viện Hàn lâm Pháp với một trong các chuyên trách của viện là chuẩn hóa ngôn ngữ Pháp, làm cho tiếng Pháp trong sáng và dễ hiểu đến mọi tầng lớp.
Danh từ Viện Sĩ tại Việt Nam
Tại các triều đại Việt Nam xưa, các quan Hàn lâm thường được gọi bằng các chức tước mà họ được bổ như quan Hàn lâm học sĩ, quan Hàn lâm thị độc học sĩ, quan Hàn lâm thị giảng học sĩ. Ít hoặc chưa thấy có sách báo hoặc trang mạng nào dùng danh từ Viện sĩ cho các quan Hàn lâm xưa. Thường, các sách báo, trang mạng viết Nguyễn Trãi, quan Hàn lâm học sĩ thừa chỉ thời Lê, ít hoặc chưa thấy sách báo hoặc trang mạng viết Nguyễn Trãi, viện sĩ viện Hàn lâm thời Lê.
Đến nay, các cơ quan Hàn lâm tại Việt Nam đều không có hoặc không hề phong chức Viện sĩ (士院, Academician). Các chức Viện sĩ thường được dùng cho các giáo sư, tiến sĩ Việt Nam đều do các viện Hàn lâm tại các quốc gia ngoài Việt Nam phong tặng.
Ngoài ra, tại Việt nam (tên gọi chính thức Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam), việc không tồn tại một cơ quan Hàn lâm viện chuyên trách việc chuẩn hóa ngôn ngữ Việt trong đó có việc chuẩn hóa các danh từ dịch thuật, đưa ra những quy tắc ngữ pháp, làm cho tiếng Việt trong sáng và dễ hiểu đến mọi tầng lớp và áp dụng bởi người Việt trên toàn thế giới, đã góp phần không nhỏ vào việc tranh cãi trong việc dịch thuật hàm Viện sĩ trong tiếng Việt. Việc giáo sư Phan Huy Lê, chủ tịch Hội sử học Việt nam, được phong tặng hàm Correspondant étranger bởi Viện Hàn lâm Pháp là một ví dụ. Quan điểm ủng hộ (và là chức danh chính thức trong bài viết về Phan Huy Lê tại Wikipedia) cho rằng hàm trên cần được dịch là Viện sĩ thông tấn trong khi ngược lại, quan điểm chống đối (từ bài viết của [http://lemanhchien41.blogspot.fr/2013/08/luoc-khao-ve-cac-ten-goi-vien-han-lam.html Lê Mạnh Chiến]) cho rằng cần được dịch là Thông tín viên. Việc các báo chí tại Việt Nam [http://3.bp.blogspot.com/-2XEyKXOLwLQ/UiLAhOKLoKI/AAAAAAAAACI/bsYdpqYEiVc/s1600/phl1.jpg chúc mừng giáo sư Phan Huy Lê] với câu văn "Lần đầu tiên có một người của ngành Khoa học Xã hội Việt Nam trở thành viện sĩ viện Hàn lâm Pháp" đã đem đến ngộ nhận từ độc giả đại chúng, không chuyên ngành cho rằng giáo sư Phan Huy Lê, với tước Correspondant étranger, được xem như là viện sĩ chính thức (Académicien), nhưng chức Académicien là một tước cao quý nhất và không dành cho các ứng cử viên không có Pháp tịch. Trong bài viết về Phan Huy Lê tại Wikipedia, việc dịch chức sang tiếng Việt là Viện sĩ thông tấn nhưng lại để thêm chức vụ trong tiếng Pháp kèm theo là Correspondant étranger mà không có lời chú thích, dẫn nguồn về việc dịch danh từ Viện sĩ thông tấn này có được chấp nhận từ Viện hàn lâm Pháp hay các cơ quan chính thức tại Việt Nam hay không lại càng làm cho các nhà nghiên cứu, độc giả nghi ngờ về tính xác thực, thổi phồng tước phong của việc dịch danh thuật này.
Biên chế Hàn lâm viện
Quan viên
Hàn lâm viện thời Tự Đức gồm các quan viên được liệt kê theo cấp bậc cao thấp như sau:
- Hàn lâm viện Trưởng viện học sĩ
- Hàn lâm viện Trực học sĩ
- Hàn lâm viện Thị độc học sĩ. Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ
- Hàn lâm viện Thị độc, Hàn lâm viện Thừa chỉ, Hàn lâm viện Thị giảng
- Hàn lâm viện Trước tác, Hàn lâm viện Tu soạn
- Hàn lâm viện Biên tu, Hàn lâm viện Kiểm thảo
- Hàn lâm viện Điển bạ, Hàn lâm viện Điển tịch
- Hàn lâm viện Đãi chiếu, Hàn lâm viện Cung phụng
Trách nhiệm
Soạn thảo văn từ, sắc mệnh
Phàm những việc biên soạn, ngành từ hàn, thảo luận kinh điển, cùng hết thảy mọi sự văn từ, sắc mệnh, đều thuộc vào viện Hàn lâm cả. Chưởng viện Học sĩ coi về việc văn từ chế cáo, ra vào chầu hầu nhà vua để phòng khi vua hỏi. Trực học sĩ làm việc sự vụ trong viện, nhưng quyền cũng như chưởng viện học sĩ. Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị độc, Thừa chỉ và Thị giảng, đều coi về việc biên soạn, trước thuật để giúp vào việc từ hàn. Tu soạn, Biên tu, Kiểm thảo đều coi về việc phiên duyệt thư tịch, và kiểm duyệt từ hàn. Điển bạ coi việc phát, nhận văn thư. Đãi chiếu coi việc hiệu đính và đối chiếu văn sử.
Giảng dạy, thảo luận kinh điển
Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị độc, Thừa chỉ và Thị giảng đều là các quan uyên thâm Nho học, nên còn chuyên trách việc thảo luận kinh truyện cùng vua, cùng Kinh diên giảng quan trong các buổi thiết triều giảng dạy kinh sử cho các quan cấp cao trong triều đình. Đôi khi, chuyên trách việc giảng dạy kinh sử cho Thái tử (nếu Đông cung cần phụ quan) và các hoàng tử.
Biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ
Cùng Quốc sử quán biên soạn quốc sử, thực lục, điển lễ theo lệnh vua hoặc triều đình
Đảm nhận trách nhiệm Khâm sai
Khi cần, vua bổ các vị quan cấp cao trong Hàn lâm viện giữ chức Khâm sai, giúp vua và triều đình giải quyết các vấn đề ngoại giao hoặc nội chính trong một thời gian ngắn
Lịch sử
Thời Đường
Bắt đầu từ những năm 700, danh từ Hàn lâm được dùng để chỉ các chức vụ, cơ quan với ý nghĩa là các thuộc viên hoặc người giữ chức Hàn lâm có trình độ cao hoặc có tay nghề chuyên môn uyên thâm, dù các chuyên môn này có thể không liên quan đến văn học, nghệ thuật, kinh truyện. Thời này, Hàn lâm có thể được đặt trước tên chức của các học sĩ, y sĩ, các nhà bói toán, các quan viết thư pháp, v.v.
Khoảng năm 666 hoặc 667, triều đình lập văn phòng Bắc Môn (北門, North Gate), hợp các học sĩ văn hay chữ tốt chuyên trách việc soạn thảo chiếu chỉ, tác phẩm mà triều đình giao cho. Các học sĩ này ngoài các Nho học gia ra, còn có những học sĩ với chuyên môn trong Tứ thư, trong thơ ca, hoặc trong Phật học hoặc Lão học, v.v.
Năm Tiên Thiên nguyên niên (712) thời Đường Huyền Tông, triều đình xóa tên văn phòng Bắc Môn, lấy tên chức Hàn lâm đãi chiếu (翰林待詔, Academicians Awaiting Orders) để chỉ các vị Bắc Môn học sĩ xưa, bắt đầu sắp xếp quy tụ những học sĩ uyên thâm chữ nghĩa. Năm này, Trung thư sảnh (中書省, Secretariat) nhiều việc, nên tuyển người văn hay chữ tốt, bổ chức Hàn lâm cung phụng (翰林供奉, Academician in Attendance), phụ giúp các học sĩ tại các viện văn học như Tập hiền viện, Chiêu văn quán trong việc chế cáo thư sắc.
Thời này, hai chức Hàn lâm đãi chiếu và Hàn lâm cung phụng đều là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), là những chức với trách nhiệm được giao không liên quan đến chức vụ chính thức của vị quan được giao. Việc soạn thảo văn kiện cần người văn hay chữ tốt, nên các quan có ưu điểm này đều được tuyển dụng từ các bộ, cơ quan khác nhau. Vì việc cần người ở các cấp khác nhau, nên số lượng hai hạng Học sĩ trên tùy lúc cao thấp khác nhau. Hai chức này không bổ phẩm trật và không trả lương. Các quan giữ hai chức này được trả lương theo chức vụ chính thức mà họ đã nắm giữ trong triều đình trước khi nhậm một trong hai chức Hàn lâm này.
Năm Khai Nguyên 26 (738), triều đình gộp 2 chức Hàn lâm cung phụng và Hàn lâm đãi chiếu lại thành một và gọi chức mới là Hàn lâm học sĩ (翰林學士, Hanlin Academician), phân biệt với các hạng học sĩ khác. Hàn lâm học sĩ làm việc cho Hàn lâm viện. Các học sĩ khác ngoài Hàn lâm viện được gọp lại và điều hành bởi cơ quan cũng lập cùng năm là Học sĩ viện (學士院, Institute of Academicians).
Vào những năm đầu của Hàn lâm viện, do đơn thuần là cơ quan soạn thảo văn kiện nên viện không là một cơ quan với nhiều ảnh hưởng đến chính sự triều đình. Nhưng những năm sau, nhất là vào những năm 800 sau cuộc loạn An Lộc Sơn, mức ảnh hưởng của Hàn lâm viện tăng lên đáng kể khi những việc bổ hay miễn quan văn võ, sách lập Thái tử, tuyên bố chinh phạt, hoặc các sắc lệnh vua ban đều do các vị Hàn lâm viện học sĩ khởi thảo, các Hàn lâm học sĩ dần dần trở thành cố vấn riêng của vua trong các vấn đề chính sự.
Cũng như hai chức Hàn lâm cung phụng và Hàn lâm đãi chiếu trước đây, chức Hàn lâm học sĩ thời Đường không có ngạch nhất định, không có giới hạn quan được bổ phải từ cấp hoặc phẩm nào. Mức lương được trả là mức lương theo chức vụ chính thức mà vị quan được đã nắm giữ trước khi nhậm chức Hàn lâm học sĩ. Sau khi làm việc 1 năm tại Hàn lâm viện, quan Hàn lâm học sĩ sẽ được phong hàm (không phải là chức mà là hàm) Tri chế cáo (知制誥, Participant in the Drafting of Proclamations). Quan Hàn lâm học sĩ chưa được thăng hàm Tri chế cáo không được khởi thảo văn thư, chỉ được thị tùng văn học. Được bổ vào chức Hàn lâm học sĩ đồng nghĩa với việc khi yến tiệc được ngồi dưới Tể tướng, trên quan Nhất phẩm, nên các quan Hàn lâm học sĩ còn được biết đến là quan "Nội tướng (内相, Inner Counsellor-in-chief)". Vì chức vụ kề cận và cố vấn vua, dù cho chức vụ chính thức cao thấp ra sao, Hàn lâm học sĩ thăng tuyển dễ dàng trong quan trường, thường thăng đến Tể tướng.
Biên chế
Thời Đường, các chức Học sĩ chính thức trong Hàn lâm viện như Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, Hàn lâm học sĩ, Hàn lâm thị độc học sĩ, Hàn lâm thị giảng học sĩ đều là các chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), không lương và không phẩm trật, được xem là cao quý hơn chức danh Học sĩ thông thường tại các viện khác dù tất cả các chức Học sĩ đều không được trả lương.
Số học sĩ Hàn lâm viện lúc đầu tăng hoặc giảm tùy theo nhu cầu.
Đời Đường Huyền Tông, triều đình chỉ định giới hạn Hàn lâm học sĩ là 6 người. Sau năm 800, trong 6 quan Hàn lâm học sĩ, lại một quan được chọn làm chưởng quan Hàn lâm viện với chức vụ là Hàn lâm học sĩ thừa chỉ (翰林學士承旨, Hanlin Academician Recipient of Edicts). Tương tự Hàn lâm Thị độc học sĩ, chức Hàn lâm Thị giảng học sĩ là chức cao quý hơn Hàn lâm Thị giảng hoặc Thị giảng tại triều đình.
- Thị thư học sĩ (侍書學士, Academician Calligrapher-in-Waiting) là chức Sai khiển giữ việc dạy bảo thư pháp. Chức này có lẽ được lập vào thời Đường. Không có tư liệu để biết có chức Hàn lâm Thị thư học sĩ hay không. Theo suy đoán, chức Hàn lâm Thị thư học sĩ có thể được đặt vì thời Đường là thời có rất nhiều thư pháp gia nổi tiếng như Liễu Công Quyền hoặc Chữ Toại Lương. Các chức Hàn lâm học sĩ thừa chỉ, Hàn lâm học sĩ, Hàn lâm Trực học sĩ, Hàn lâm Thị độc học sĩ, Hàn lâm Thị giảng học sĩ là các chức được gắn thêm chữ Hàn lâm và hàm Học sĩ để phân biệt với các chức cùng tên nhưng được bổ vào các viện khác như Tập hiền viện. Các chức khác trong Hàn lâm viện tùy theo trường hợp mà được chuyển sang Hàn lâm viện và gắn thêm mỹ tự Hàn lâm để phân biệt với chức không thuộc Hàn lâm viện, chỉ phụ giúp viện.
Dưới các chức này là các chức Hàn lâm Thị độc (翰林侍讀, Hailin Reader-in-waiting), Hàn lâm Thị giảng (翰林侍講, Hailin Expositor-in-waiting).
Ngoài ra, Hàn lâm viện còn được phụ giúp bởi 2 quan Ngũ kinh Bác sĩ (五經博士, Erudite of the Five Classics), là chức chính thức có trật phẩm (không phải chức Sai khiển), đã được lập từ thời Hán, được trao các quan uyên thâm chuyên nghiên cứu về Ngũ kinh, để dạy các sĩ tử tại Quốc tử giám, trật Chánh ngũ phẩm.
Ngoài những chức điều hành và thuộc viên trong Hàn lâm viện trên ra, còn có các chức phụ giúp đến từ các viện học thuật khác như Tập hiền viện hoặc Chiêu văn quán. Các chức như Thị độc, Thị giảng, Hiệu lý (校理, Subeditor) (Hiệu lý được bãi bỏ vào năm Trinh Nguyên 8 (792) thay bằng chức Hiệu thư (校書, Editing Clerk)), Chính tự (政字, Clerk), Kiểm thảo (檢討, Examining Editor), Trước tác lang (著作郞, Editorial Director), Tu soạn (修撰, Senior Compiler), Trước tác (著作, Editorial Clerk), Hiệu khám (校勘, Proofreader), v.v. Các chức này tùy theo trường hợp mà được chuyển sang chính thức thuộc Hàn lâm viện và gắn thêm mỹ tự Hàn lâm hoặc chỉ đơn thuần phụ việc Hàn lâm viện trong một thời gian ngắn.
Thời này, việc giới hạn 6 Hàn lâm học sĩ không có nghĩa là chỉ có 6 vị học sĩ tại triều đình. Trong triều đình ngoài Hàn lâm học sĩ ra, vì chức Học sĩ là một chức Sai khiển, có khá nhiều các học sĩ khác làm việc tại các bộ, cấp khác nhau, đều dưới sự điều hành của Học sĩ viện. Hàn lâm viện (hay Hàn lâm Học sĩ viện) và Học sĩ viện đã hoạt động song song cùng nhau cho đến hết thời Tống, mặc dù thời nay khi nhắc đến học sĩ, người ta lại nhớ đến các vị học sĩ thuộc Hàn lâm viện nhiều hơn là các vị học sĩ đến từ Học sĩ viện. Ngoài ra, còn có chức Trực học sĩ (直學士, Auxiliary Academician), trật thường từ Lục phẩm trở xuống, những chiếu lập Thái tử, bổ miễn quan lại cấp cao, chiếu tuyên bố chinh phạt, chiếu khen ngợi Thanh cung Đạo quán (清宮道觀, một quán đạo Lão nổi tiếng thời Đường) thì dùng loại giấy đay trắng tên Bạch Ma (白麻, White rattan paper). Các loại chiếu khác như chiếu ủy lạo, an ủi binh lữ dùng loại giấy đay vàng tên Hoàng Ma (黃麻, Yellow rattan paper). Chiếu tiến cáo (dùng trong tế lễ) dùng tại Thanh cung Đạo quán dùng mực son (tức mực màu đỏ) viết trên giấy màu xanh dương gọi thanh đằng (青藤, Blue rattan paper), v,v...
Việc lập biên chế Lưỡng chế đảm bảo sự bí mật trong việc soạn thảo những chiếu, chỉ quan trọng mà đôi khi chỉ vua là người biết duy nhất trước khi tuyên bố. Theo Kiến văn tạp lục của Lê Quý Đôn:
"Thời nhà Tống, Bắc Môn giữ Nội chế, Tây dịch giữ Ngoại chế, gọi là Lưỡng chế. Khi thảo chế văn phong chức cho quan văn, quan võ, thì trước hết viên Trung thư dâng tờ trình về việc ban phong, tới hôm ấy, nhà vua truyền lệnh đóng cửa viện để khởi thảo; duy thảo chế văn phong hậu phi, Thái tử và tể tướng thì không cho viện này biết, mà sai nội sứ truyền lệnh triệu viên quan học sĩ đến tiện điện nhà vua đương đường dụ bảo về ý nghĩa ban phong, cho phép viên quan ấy ngồi và ban cho uống trà, trước mặt vua bày đồ kim khí gần ba trăm lạng, khi đã viết xong tờ chế, liền đem ban cho. Như Vương Luân thảo tờ chế phong Lưu quý phi, Cao Tông ban cho tiền nhuận bút gần một vạn quan, sao mà hậu đãi thế? Tờ chế thảo đến trống canh ba mới xong, khi dâng bản thảo, vua vẫn chưa đi nằm, để đợi, kịp đến sáng tuyên bố chế văn, cũng không cho viên quan khác thay đổi đính chính, sao mà trọng đãi thế? Nhà Minh trở về sau, không có thể lệ ấy."
Thời Tống
Các thay đổi tại Hàn lâm viện
Thời Tống, các chức các Hàn lâm học sĩ thường phụ trách những buổi thiết triều thảo luận về kinh truyện cùng vua và triều đình. Đây chính là thời kỳ Hàn lâm viện chuyển đổi từ một tổ chức cố vấn chính trị không chính thức thành một cơ quan chuyên phụ trách việc học thuật và văn hóa như được biết đến ngày nay.
Thời Tống Thần Tông (1067-1085), chức Hàn lâm học sĩ không còn là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), được quy định trở thành chức quan chính thức với trật Chánh tam phẩm. Bắt đầu từ lúc này, chính sách Lưỡng chế được xóa và toàn bộ việc soạn thảo văn kiện đều do Hàn lâm học sĩ đảm giữ. Hàn lâm học sĩ chính thức thời này được giới hạn lại là 2 người. Ngoài ra:
- Tương tự thời Đường, nếu cần bổ thêm những vị quan để giữ việc soạn thảo, Hàn lâm viện sung các Trực học sĩ (直學士, Auxiliary Academician), trật thường là Tòng tam phẩm, giữ việc soạn quốc sử và thực lục, thuộc Quốc sử viện (國史院, Historiography Academy) và Thực lục viện (實錄院, True Records Institute). Ngoài ra, thời này còn có thêm chức Tả, Hữu Thuyết thư (說書, Lecturer), coi việc giảng nghĩa kinh sách.
Riêng chức Thị thư:
- Không như thời Đường, chức Thị thư thời Tống không có chức vụ Học sĩ theo kèm, tức thời Tống, Thị thư là Thị thư (侍書, Court Calligrapher) mặc dù vẫn thuộc Hàn lâm viện
Chức Thị thư giúp việc cho Điển bạ (典簿, Manager of Registration)
Việc hợp nhất Hàn lâm viện vào Nội thị sảnh
Thời Tống lại là thời mà danh từ Hàn lâm viện đã bị ngộ nhận nghiêm trọng qua việc dùng Hàn lâm viện để làm cơ quan chuyên trách các thú vui tao nhã trong triều đình. Do các vua Tống đều là những vị hoàng đế yêu thích nghệ thuật, Hàn lâm viện lại được biết đến là một cơ quan chuyên về văn hóa nghệ thuật hơn là cơ quan cố vấn việc quốc sự học học viện như thời Đường. Hàn lâm viện này (khác với Hàn lâm viện tương tự Học sĩ viện) được đặt dưới quyền điều hành của Nội thị sảnh (內侍省, Department of Service). Thời này, Hàn lâm viện _(翰林院, Artisans Institute)_ được biết đến với tên gọi là Tứ sở (四局, Four Artisan Services) do trong biên chế của viện, gồm bốn sở là sở thiên văn (天文局, Astrologer Service), sở đồ họa (圖畫局, Painter Service), sở thư nghệ (書藝局, Calligrapher Service), và sở Vụ Trá (騖笮局, Games & Tea Service). Việc làm này đã tạo nên những ngộ nhận ngày nay đánh đồng việc các Hàn lâm học sĩ thời này kiêm chức quan bói toán, hầu rượu, đãi trà, v.v.
Thật ra, thời Tống, Hàn lâm viện có 2 ý nghĩa khác nhau. Hàn lâm viện (翰林院, Hanlin Academy) là Hàn lâm viện, như Học sĩ viện, chỉ về văn học, về các quan văn cao chữ tốt gồm 6 người rồi sau đó là 2 người dưới thời Tống Thần Tông. Còn Hàn lâm viện (翰林院, Artisans Institute), như Tứ sở (四局, Four Artisan Services) thì lại là một cơ quan của Nội thị sảnh, chuyên trách các hoạt động thú vui nghệ thuật trong cung đình, những cơ quan này lẫn các thuộc viên, chưởng quan không phải là Hàn lâm học sĩ.
Thời Liêu, Kim, Nguyên
Thời Liêu, Kim, Nguyên, Hàn lâm viện được đổi thành Hàn lâm Quốc sử viện (翰林國史院, Hanlin and Historiography Academy), chuyên trách các việc học thuật Hàn lâm và biên soạn quốc sử, không liên quan đến các việc hành pháp và lập pháp. Các triều đại này đều lập Hàn lâm học sĩ nhưng địa vị thấp hơn thời Đường Tống. (學士, Chancellor of the Hanlin Academy), trật Chánh tam phẩm, rồi Tòng tam phẩm, rồi Chánh ngũ phẩm
Thời Thanh
thumb|Hàn Lâm Viện thời Thanh năm 1744, sau một cuộc tân trang dưới triều [[Càn Long, (tranh vẽ)]] nhỏ|Khuôn viên Hàn lâm viện Trung Quốc (hình chụp năm 2016)
Các thay đổi tại Hàn lâm viện
Thời Thanh là thời mà số thuộc viên Hàn lâm viện tăng đáng kể. Tổng số thuộc viên làm việc tại Hàn lâm viện thời Thanh được biết đến là 6472 người.
Thời này, Hàn lâm viện vẫn là một cơ quan học thuật danh vọng, nhưng không còn tham gia nhiều vào các việc quốc gia đại sự. Hàn lâm viện thời Thanh được giao giữ việc biên soạn quốc sử, ghi chép các câu, lời nói vua, điều hành việc giảng kinh truyện, thảo văn kiện liên quan đến nghi lễ. Như thời Minh, Hàn lâm viện thời Thanh là nơi mà các tiến sĩ bắt đầu xuất thân trên quan trường và hầu hết các trọng thần đều xuất thân từ Hàn lâm viện. Đến nỗi thời Đạo Quang, Hàm Phong, các thuộc quan Hàn lâm viện có thể từ chức Biên tu, Kiểm thảo trong vòng 10 năm thăng đến chức Thị lang (侍郎, Vice Minister) là chức điều hành một viện hoặc phủ, chỉ đứng dưới Thượng thư.
Biên chế
Tương tự thời Minh, Hàn lâm viện thời Thanh được điều hành bởi Học sĩ. Nhưng vào thời Thanh, Hàn lâm học sĩ được chia cho 2 quan thay vì chỉ một quan như thời Minh. Chức Hàn lâm học sĩ thời Thanh được biết đến nhiều hơn với tên gọi chính thức là Hàn lâm viện Chưởng viện học sĩ (翰林院掌院學士, Academicians in Charge)
Hai quan học sĩ này được lựa chọn từ Đại học sĩ hoặc Thượng thư, chọn 1 quan người Mãn, 1 quan người Hán, bổ chức Học sĩ kiêm hàm Lễ bộ Thị lang, trật Chánh nhị phẩm. Chức Học sĩ này được thành lập năm 1644, rồi lại nhập vào với Nội các đến 1670 đồng nghĩa với việc không có chức Học sĩ hoặc Chưởng viện học sĩ trong những năm này. Năm 1670,chức Chưởng quan được lập lại cho đến khi Hàn lâm viện bị bãi bỏ.
Dưới 2 quan Hàn lâm học sĩ vẫn là các thuộc viên như Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ, Thị độc, Tu soạn, Kiểm thảo, Điển bạ, Thự các sĩ, v.v.
Thời này, cũng như thời Minh, Hàn lâm viện là nơi mà các tiến sĩ có thể thăng chức mau chốc trên quan trường. Theo luật thời Minh, Thanh:
- Các vị tiến sĩ đệ nhất giáp kỳ thi Đình được trao ngay những chức vụ trong Hàn lâm viện, như Trạng nguyên được bổ chức Hàn lâm viện Tu soạn trật Tòng lục phẩm, Bãng nhãn và Thám Hoa được bổ chức Hàn lâm viện Biên tu, trật Chánh thất phẩm.
- Đối với các vị tiến sĩ khác đậu nhị hoặc tam giáp trong kỳ thi Đình, họ được triều đình bổ chức Thự các sĩ (庶吉士, Hanlin Bachelor) là các chức được làm tạm thời trong Hàn lâm viện. Sau 3 năm các vị Thự các sĩ này sẽ được khảo lại, nếu đậu, triều đình sẽ bổ vào các chức trong Hàn lâm viện hoặc tại các cơ quan khác trong triều đình. Các chức vụ này phần lớn đều liên quan đến bộ Lễ, và dần dần từ bộ Lễ, được bổ vào Nội các trong tương lai.
Thời Lý
Thời Lý, danh từ Hàn lâm được biết đến lần đầu tiên trong các triều đại Việt Nam.
Theo Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, chức Hàn lâm học sĩ đã được đặt vào thời Lý Thái Tông (1028-1054) cùng các chức vụ quan trọng khác
Năm Quảng Hựu 2 (1086) thời Lý Nhân Tông, triều đình mở khoa thi cử tuyển lấy những người có học vấn cao, sung vào Hàn lâm viện., điều hành Hàn lâm viện. Số Hàn lâm học sĩ được phân định trong Hàn lâm viện thời này không rõ là bao nhiêu người.
Thời Trần
Theo Lịch triều Hiến chương loại chí, mục Quan chức chí, quan chế đời Trần có chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ và chức Hàn lâm viện học sĩ. Việc này đồng nghĩa với chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ là chức chưởng quan, trên chức Hàn lâm viện học sĩ. Đây là 2 chức riêng biệt. Trường hợp Hồ Tông Thốc từ chức Hàn lâm viện học sĩ thăng Hàn lâm học sĩ phụng chỉ 14 năm sau là một ví dụ
Thời Trần Thánh Tông (1258-1279), mùa Xuân, tháng giêng, Hàn lâm viện học sĩ kiêm Giám tu quốc sử Lê Văn Hưu vâng sắc chỉ soạn xong bộ Đại việt sử ký từ Triệu Vũ đế đến Lý Chiêu Hoàng, gồm 30 quyển, dâng lên. Vua xuống chiếu khen ngợi.
Năm Thiệu Long 10 (1267) thời Trần Thánh Tông, Đặng Kế (鄧薊) làm Hàn lâm viện học sĩ, Đỗ Quốc Tá làm trung thư sảnh trung thư lệnh, đều là nho sĩ văn học. Việc bổ nhiệm này là một sự kiện quan trọng trong các triều đại Việt Nam vì bắt đầu từ đây, người có văn học được giữ quyền bính trong triều đình
Năm Thiệu Bảo 4 (1282) tháng 6 thời Trần Nhân Tông, nhà Nguyên Trung Quốc, trong chiến lược xâm lăng Việt Nam, phong chú vua Trần Nhân Tông là Trần Di Ái làm vua Trần, bổ Lê Mục làm Hàn lâm học sĩ, Lê Tuân làm Trung thư lệnh, về lại Đại Việt, nhưng nhà Trần sai binh đánh dẹp tại biên giới, bắt được tất cả, tha chết, xử vào tội đồ làm lính
Cùng năm này tháng 10, thái sư Đinh Củng Viên được kiêm bổ chức Hàn lâm học sĩ phụng chỉ (翰林學士奉旨, Hanlin Academician Recipient of Edicts), điều hành các quan Hàn lâm học sĩ cùng viện
Năm Hưng Long 16 (1308) thời Trần Anh Tông, Trương Hán Siêu được bổ chức Hàn lâm học sĩ
Năm Thiệu Long 8 (1348) thời Trần Dụ Tông, mùa xuân, tháng giêng, lấy ngự tiền học sinh Đỗ Tử Bình làm thị giảng tâu rằng... cùng các quan khác làm độc quyển (讀卷, Palace Examination Reader). Những chức xưa như Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ lúc này được cải thành Hàn lâm thừa chỉ, hoặc Hàn lâm viện thị độc học sĩ được cải thành Hàn lâm viện thị độc. Thời Lê Trung Hưng, chức học sĩ được bỏ hoàn toàn tại mọi viện, điện trừ Đông các học sĩ vẫn được dùng như lệ có từ thời Hồng Đức.
- Chức Thừa chỉ nói chung hay Hàn lâm học sĩ thừa chỉ nói riêng là chức đã được đặt từ thời Đường và được dùng đến hết thời Nguyên. Bắt đầu từ nhà Minh, chức Hàn lâm học sĩ thừa chỉ không còn được dùng. Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận; Đông các hiệu thư Ngô Luân, Ngô Hoán; Hàn lâm viện thị độc chưởng sự Nguyễn Xung Xác; "Hàn lâm viện thị độc tham chưởng viện sự Lưu Hưng Hiếu"; Hàn lâm viện thị thư Nguyễn Quang Bật, Nguyễn Đức Huấn, Vũ Dương, Ngô Thầm; Hàn lâm viện đãi chế Ngô Văn Cảnh, Phạm Trí Khiêm, Lưu Thư Ngạn; Hàn lâm viện hiệu lý Nguyễn Nhân Bị, Nguyễn Tôn Miệt, Ngô Quyền, Nguyễn Bảo Khuê, Bùi Phổ, Dương Trực Nguyên, Chu Hoãn; Hàn lâm viện kiểm thảo Phạm Cẩn Trực, Nguyễn Ích Tốn, Đỗ Thuần Thứ, Phạm Nhu Huệ, Lưu Dịch, Đàm Thận Huy, Phạm Đạo Phú cùng họa lại vần
- Năm Hồng Đức 26 (1495), vua soạn tập Cổ kim bách vịnh thi, Hàn lâm viện thị độc chưởng viện sự Nguyễn Xung Xác và Tham chưởng Lưu Hưng Hiếu họa vần, Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung và học sĩ Đào Cử phụng bình
- Năm Hồng Đức 27 (1496), sai Hàn lâm viện thừa chỉ Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu Thân Nhân Trung, Hàn lâm viện thị độc Đông các học sĩ Đào Cử, Hàn lâm viện thị giảng chưởng Hàm lâm viện sự Lưu Hưng Hiếu, Đông các Hiệu thư Ngô Luân, Ngô Hoán, Hàn lâm viện thị thư kiêm Tú lâm cục tư huấn Trần Khắc Niệm và Hàn lâm viện thị thư Ngô Thầm làm độc quyển
- Năm Cảnh Thống 2 (1499), ngày mồng 9, thi Điện. Đầu bài văn sách hỏi về nhân tài và vương chính. Sai Đông các học sĩ Nguyễn Bảo, Hàn lâm viện thị giảng tham chưởng hàn lâm viện sự Lê Ngạn Tuấn làm độc quyển.
- Năm Cảnh Thống 5 (1502), sai Lễ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự Nguyễn Bảo và các quan khác làm độc quyển
- Năm Đoan Khánh 2 (1506), khởi phục Đỗ Nhân là Lễ bộ hữu thị lang Hàn lâm viện thị độc tham chưởng Hàn lâm viện sự, vì nhân về nghỉ tang mẹ vừa hết trở
- Năm Hồng Thuận nguyên niên (1509), sai Lễ bộ tả thị lang Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng soạn bi ký
- Năm Hồng Thuận 2 (1510), bổ Hàn lâm viện thị độc tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ tả thị lang
- Năm Quang Thiệu 5 (1520), lấy Nguyễn Hữu Nghiêm làm chưởng Hàn lâm viện sự
- Năm Đức Long 4 (1632), gia thăng Lễ bộ thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự, Đông các học sĩ, quốc lão tham dự triều chính. Thiếu uý Lan quận công Nguyễn Thực làm thái bảo
- Năm Đức Long 6 (1634), gia phong Lễ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị độc chưởng hàn lâm viện sự, Đông các học sĩ quốc lão tham dự triều chính, Thái bảo Lang quận công Nguyễn Thự chức Hộ bộ thượng thư thái phó trí sĩ. Từ khi bản triều khôi phục đến đây, thượng thư quốc lão về trí sĩ bắt đầu từ Thực.
- Năm Vĩnh Thọ 4 (1661), gia phong Hộ bộ thượng thư kiêm Hàn lâm viện thị giảng chưởng Hàn lâm viện sự,Thiếu bảo Bạt quận công Dương Trí Trạch làm Lại bộ thượng thư quốc lão thái bảo cho về trí sĩ. Theo suy luận từ dữ liệu trên từ Đại Việt sử ký toàn thư và từ dữ liệu về việc cải tổ thời Hồng Đức nguyên niên (1470) từ Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí:
- Chức Hàn lâm viện thị độc là chức cao nhất trong Hàn lâm viện từ những năm Hồng Đức trở về sau. Khi cải tổ Hàn lâm viện, chức Hàn lâm học sĩ, trực học sĩ, hàm Tri chế cáo đều đã được bãi bỏ.
- Chức Hàn lâm viện thừa chỉ do Thân Nhân Trung nắm giữ (từ năm 1477 đến khi quan mất năm 1499) là chức được phong từ năm 1477. Mãi đến năm 1485, chức Hàn lâm viện chưởng viện sự lần đầu tiên được bổ cho Lễ bộ tả thị lang Lê Quảng Chí. Hai việc này có thể cho ta suy đoán rằng trước hoặc gần năm 1485, Thân Nhân Trung vẫn điều hành công việc hàng ngày tại Hàn lâm viện. Nhưng những năm sau đó, triều đình tập trung vào việc tạo dựng nền tảng giáo dục, đào tạo nhân tài cho đất nước với các khoa thi cử, với khoa thi đầu tiên năm Giáp Thìn 1484, nên Thân Nhân Trung, với 3 chức rất cao là Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các Đại học sĩ, và Quốc tử giám Tế tửu, có lẽ tập trung phần lớn thời gian vào các việc trong Quốc tử giám, tổ chức việc giáo dục các nhân tài trong tương lai. Còn việc thường ngày điều hành công việc hành chính trong Hàn lâm viện, vẫn rất quan trọng nhưng có lẽ không quan trọng hơn việc tạo dựng nền tảng giáo dục qua khoa cử, triều đình giao cho các quan chức cao nhất trong Hàn lâm viện (tức Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện thị giảng) nắm giữ. Khi cần, Thân Nhân Trung có thể cố vấn cho Hàn lâm viện về những việc cần làm, nhưng trong công việc thường này của viện, đây không phải là trách nhiệm cần đến Thân Nhân Trung.
- Việc Thân Nhân Trung tiếp tục giữ chức Hàn lâm viện thừa chỉ khi chức Hàn lâm viện chưởng viện sự được phong cho các quan Hàn lâm viện khác là điều dễ hiểu. Chức Hàn lâm viện thừa chỉ đã được bổ cho Thân Nhân Trung từ năm 1477 cho đến khi quan mất năm 1499 là chức quan trật cao và có thể nói là một chức danh vọng nhất (ngoại trừ chức Thượng thư trong coi việc chính sự) cho các học quan xưa. Vua Lê Thánh Tông không có lý do gì xóa chức này của Thân Nhân Trung trong khi ông còn giữ thêm chức Đông Các Đại học sĩ và Quốc tử giám tế tử. Tuy vậy, thời Hồng Đức về sau, ngoại trừ Thân Nhân Trung, vua Lê Thánh Tông không còn phong chức Hàn lâm viện thừa chỉ cho quan nào nữa. Việc này cho thấy, bắt đầu từ thời Hồng Đức (1470) trở về sau, triều Lê sơ (và triều Mạc lẫn thời Lê Trung Hưng sau này), đều áp dụng biên chế dùng các quan trong Hàn lâm viện như Hàn lâm viện thị độc, Hàn lâm viện thị giảng, hoặc lệnh các quan Thượng thư, Thị lang từ bộ Lễ hoặc bộ Lại kiêm thêm chức chưởng quan Hàn lâm viện. Việc này không phải là một trường hợp đặc biệt vì đây cũng là biên chế mà nhà Thanh Trung Quốc đã áp dụng sau này.
- Việc kiêm chức thường là dành cho quan Thượng thự, thị lang bộ Lễ (hoặc bộ Lại) kiêm thêm chức chưởng quan Hàn lâm viện, không đi theo hướng ngược lại. Điều đó nghĩa là, một vị quan Lễ bộ thượng thư hoặc Lễ bộ tả thị lang, trật nhị hoặc tam phẩm được bổ kiềm chức Hàn lâm viện chưởng viện sự, chứ không phải là một vị quan với chức Hàn lâm viện thị độc, trật ngũ phẩm, được bổ kiềm chức Lễ bộ thượng thư hoặc Lễ bộ tả thị lang, trật nhị hoặc tam phẩm.
- Việc năm Hồng Thuận 2 (1510), bổ Hàn lâm viện thị độc tham chưởng Hàn lâm viện sự Lương Đắc Bằng làm Lại bộ tả thị lang gây ngộ nhận rằng một vị quan chức Hàn lâm viện chưởng viện sự (trật Chánh ngũ phẩm) lại được thăng chức Lại bộ tả thị lang (trật Chánh nhị phẩm). Thật ra, năm trước tức năm Hồng Thuận nguyên niên (1509), Lương Đắc Bằng đã là Lễ bộ tả thị lang kiêm Hàn lâm viện thị độc chưởng Hàn lâm viện sự. Năm sau (1510), Lương Đắc Bằng được thuyên chuyển sang làm Lại bộ tả thị lang, không liên quan đến chức Hàn lâm viện chưởng viện sự là chức ông đã được nắm giữ trước đó.
- Việc kiềm thêm chức Hàn lâm viện thị độc là một cách phong để vị quan có "danh chính ngôn thuận" trong việc giảng giải kinh sách. Hàn lâm viện thị độc là chức cần người uyên thâm, thuộc các kinh sử, có kiến thức cao hơn Thị giảng. Người giữ chức này cần biết ngắt câu vì sách Nho xưa viết không ngắt câu, và là người có thể đọc thuộc lòng những đoạn kinh truyện. Vì vậy chức này ngoài việc soạn thảo chế cáo, còn là chức giữ trách nhiệm giảng giải kinh sách, câu cú khi cần. Vì lý do này, triều đình cần bổ chức "danh chính ngôn thuận", chứ không thể có việc một chức quan Thượng thư (quan cấp bậc cao nhất chuyên coi việc chính sự) lại đi giảng dạy kinh truyện. Cũng như việc giao chức Hàn lâm viện chưởng viện sự, triều đình cần bổ kiềm chức này, chứ không thể nào một chức quan Thượng thư lại điều hành Hàn lâm viện mà không có chức vụ "danh chính ngôn thuận" Hàn lâm viện chưởng viện sự để điều hành. Thông lệ kiềm chức học thuật này cho các quan với phẩm trật cao rất thông dụng trong các triều đại quân chủ Á Đông.
- Việc bổ kiềm hai chức Hàn lâm viện thị độc Chưởng Hàn lâm viện sự có ý nghĩa là vị quan được bổ kiềm theo 2 chức, một chức là Hàn lâm viện thị độc chuyên giải giảng kinh sách, chấm câu. Còn chức kia là chức điều hành Hàn lâm viện.
- Việc khen chê sự khấc nhau về phẩm trật giữa chức Thượng thư và chức kiềm Hàn lâm viện thị độc hoặc Hàn lâm viện thị giảng là do sau này, khi tìm hiểu về các chức kiềm, các học giả hoặc độc giả thường chỉ giới hạn việc so sánh về phẩm trật hơn là việc thực dụng của việc bổ kiềm, nên thường có ngộ nhận cao thấp tốt xấu. Thật ra, chức Hàn lâm viện thị độc là chức cao nhất thời Hồng Đức trong Hàn lâm viện, nên việc được bổ chức này là một danh dự cho vị quan khi được bổ vào một chức học thuật trong một viện được trọng vọng nhất trong thời Nho học xưa. Về lương và chức, lương được trả theo chức hiện có và phẩm vẫn là phẩm vị quan đã được phong cùng với chức hiện có, nên việc suy đoán đây là việc giáng cấp là ngộ nhận. Việc bổ kiềm này là một thông lệ rất thường trong các triều đại quân chủ Á Đông. Việc được bổ kiềm chức vụ trong Hàn lâm hoặc điều hành Hàn lâm viện là một danh dự và không ảnh hưởng đến lương chức. Vì vậy, việc bổ kiềm này không thể xem là việc giáng cấp đáng xấu hổ cho các quan Thượng thư, thị lang.
- Sau cùng, thời Hồng Đức, chức Hàn lâm viện chưởng viện sự này là chức có thể do một hoặc hai vị quan điều hành, không như chức Hàn lâm học sĩ thừa chỉ xưa hoặc Hàn lâm chưởng viện sự thời Nguyễn sau này chỉ do một vị quan nắm giữ. Thời Hồng Đức, vị quan điều hành thứ 2 được bổ chức Tham chưởng Hàn lâm viện chưởng viện sự. Ví dụ năm Hồng Đức 20 (1489), lấy Lưu Hưng Hiếu làm Hàn lâm viện thị giảng tham chưởng Hàn lâm viện sự Tóm lại, việc phong chức chưởng viện sau năm 1485 là việc có thể suy đoán như trên dù chưa có sử sách hoặc bài viết nào viết về việc này. Cần lưu ý là dù có nhắc đến tên Hàn lâm viện chưởng viện sự, nhưng sử Việt như Lịch triều hiến chương loại chí không hề nhắc đến chức này trong phẩm trật thời Hồng Đức và thời Bảo Thái về sau. Dường như đây là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment), đã được áp dụng tại các triều đại Trung Hoa từ rất xưa.
Tên chức trong Hàn lâm viện thời Lê sơ
Dưới đây là các tên chức với tiếng Việt, chữ Hán và tiếng Anh cùng với những giải thích về các chức này thời Lê sơ. Để biết thêm chức có hay không trong các triều Lê sơ, xem thêm tại các mục dưới thuộc các triều. Các chức Hàn lâm viện này được sắp xếp theo cấp bậc quan trọng của chức trong Hàn lâm viện, từ cấp cao nhất đến chức thấp nhất.
Lưu ý: Tại Việt Nam, Hàn lâm viện được dùng gắn vào tên chức, khác với cách dùng tại Trung Quốc. Vì vậy, các chức dưới đều gắn Hàn lâm viện ngoại trừ các chức không kể đến như Chủ thư lệnh sử hoặc Nội lệnh sử.
Hàn lâm viên Đại học sĩ (翰林院大學士, Hanlin Grand Academician) - đứng đầu viện vào những năm 1465 đến 1469, có lẽ cũng là một trong những Hàn lâm học sĩ được bầu ra
Hàn lâm viện thừa chỉ học sĩ (翰林院承旨學士, Hanlin Recipient of Edicts Academician) - đứng đầu viện khi không có chức Hàn lâm Đại học sĩ. Vị quan với chức là một trong những vị quan Hàn lâm học sĩ
Hàn lâm viện Tri chế cáo (翰林院知制誥, Hanlin Participant in the Drafting of Proclamations) - sau khi làm việc 1 năm, quan Hàn lâm học sĩ được phong hàm Tri chế cáo. Quan Hàn lâm học sĩ chưa được thăng Tri chế cáo không được khởi thảo chiếu, cáo, chỉ được thị tùng văn học
Hàn lâm viện học sĩ (翰林院學士, Hanlin Academician) - nhóm học sĩ đứng đầu Hàn lâm viện
Hàn lâm viện trực học sĩ (翰林院直學士, Hanlin Auxiliary Academician) - tức các học sĩ có học vị thấp hơn Hàn lâm học sĩ - thường là các học sĩ từ các điện, viện khác phụ giúp Hàn lâm viện
Hàn lâm viện thị độc học sĩ (翰林院侍讀學士, Hanlin Academician Reader-in-waiting) - giữ việc giảng nghĩa kinh sách. Chức này cần người uyên thâm, thuộc các kinh sử, có kiến thức cao hơn Thị giảng. Người giữ chức này cần biết ngắt câu vì sách Nho xưa viết không ngắt câu và có thể đọc thuộc lòng những đoạn kinh truyện
Hàn lâm viện thị giảng học sĩ (翰林院侍講學士, Hanlin Academician Expositor-in-waiting) - phụ trách việc giải thích, bình luận, chú thích các văn thơ ca chế biểu
Hàn lâm viện thị độc (翰林院侍讀學士, Hanlin Reader-in-waiting) - giống Thị độc học sĩ nhưng không có hàm Học sĩ nên không cao quý bằng Hàn lâm viện Thị độc học sĩ
Hàn lâm viện thị giảng (翰林院侍講學士, Hanlin Reader-in-waiting) - giống Thị giảng học sĩ nhưng không có hàm Học sĩ nên không cao quý bằng Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ
Hàn lâm viện Tả, Hữu Thuyết thư (翰林院說書, Hanlin Lecturer) - coi việc giảng nghĩa kinh sách
Hàn lâm viện Thị thư (翰林院侍書, Hanlin Court Calligrapher) - giữ việc thư pháp
Hàn lâm viện Đãi chế (翰林院待制, Hanlin Compiler-in-waiting) - sẵn sàng cho biết ý kiến về văn từ trong chiếu chỉ của vua
Hàn lâm viện Hiệu lý (翰林院校理, Hanlin Subeditor) - kiểm sát, chỉnh lý và sẵn sàng cho ý kiến về văn từ, chú giải khi có người hỏi về những chữ trong chiếu chỉ của vua
Hàn lâm viện Đãi chiếu (翰林院待詔, Hanlin Expectant Official) - như chức Hiệu lý, kiểm sát, chỉnh lý và sẵn sàng cho ý kiến về văn từ, chú giải khi có người hỏi về những chữ trong chiếu chỉ của vua
Hàn lâm viện Kiểm thảo (翰林院檢討, Hanlin Examining Editor) - giữ việc kiểm thảo các văn thư
Hàn lâm viện Tu soạn (翰林院修撰, Hanlin Senior Compiler) - giữ việc khởi thảo, nhất là các bản thảo về quốc sử, thực lục
Hàn lâm viện Hiệu khám (校勘, Hanlin Proofreader) - kiểm sát, chỉnh lý văn từ trong chiếu chỉ
Chủ thư lệnh sử (主書令史, Scribal Clerk) - thuộc viên giúp việc soạn thảo , thường chưa vào hạng được phẩm
Nội lệnh sử (內令史, Clerk) - thuộc viên giúp việc lặt vặt, thường chưa vào hạng được phẩm.
* Quốc học bác sĩ (國子博士, Erudite of the National University) - chức vị phong cho các học sĩ uyên bác - đây là chức thường được phong cho các học sĩ trong Quốc tử giám, không thuộc Hàn lâm viện. Theo Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí, có chức này trong Hàn lâm viện thời Lê, không hẳn là đúng.
Ngoài ra, còn có các chức không thuộc Hàn lâm viện, nhưng liên quan đến viện:
Năm Quang Thuận 8 (1467) thời Lê Thánh Tông, bắt đầu đặt chức Ngũ kinh Bác sĩ (五經博士, Erudite of the Five Classics). Bấy giờ các giám sinh học Kinh Thi, Kinh Thư thì nhiều, học Lễ Ký, Chu Dịch, Xuân Thu thì ít, cho nên đặt chức Ngũ kinh bác sĩ, mỗi người chuyên nghiên cứu một kinh để dạy học trò.
Hàn lâm viện Hiệu khám
Chủ thư lệnh sử
Nội lệnh sử
Hàn lâm viện từ năm 1470
Hàn lâm viện Đại học sĩ
Hàn lâm viện Thừa chỉ - Chánh tứ phẩm
Hàn lâm viện Tri chế cáo - đây là hàm
Hàn lâm viện Học sĩ
Hàn lâm viện Trực học sĩ
Hàn lâm viện Thị độc học sĩ
Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ
Hàn lâm viện Thị độc - Chánh ngũ phẩm
Hàn lâm viện Thị giảng - Tòng ngũ phẩm
Hàn lâm viện Tả, Hữu Thuyết thư - Tòng ngũ phẩm
Hàn lâm viện Thị thư - Chánh lục phẩm
Hàn lâm viện Đãi chế - Tòng lục phẩm
Hàn lâm viện Hiệu lý - Chánh thất phẩm
Hàn lâm viện Đãi chiếu - Chánh thất phẩm
Hàn lâm viện Kiểm thảo - Tòng thất phẩm
Hàn lâm viện Tu soạn - Chánh bát phẩm
Hiệu khám
Chủ thư lệnh sử - thường chưa vào hạng được phẩm
Nội lệnh sử - thường chưa vào hạng được phẩm
Lưu ý, thời Hồng Đức về sau (tức khoảng 1485 trở đi) còn có chức Hàn lâm viện chưởng phủ sự nhưng chức này không được phẩm trật thời Hồng Đức và thời Bảo Thái sau này. Dường như đây là chức Sai khiển (差遣, Duty Assignment).
Theo Lịch triều hiến chương loại chí, mục Quan chức chí, chức vụ Hàn lâm viện thời này được viết rất rõ là:
"Phàm các bài chế, biểu, thơ ca, văn thư, đều phụng mệnh sửa chữa; cùng là sự bầu cử ở triều đường chưa được hợp, đều được làm tờ trình lên"
Ngoài ra, bắt đầu từ thời Hồng Đức, Hàn lâm viện còn có 3 quán trông coi về việc giáo dục:
Sùng văn quán (崇文館, Institute for the Veneration of Literature) là quán trông coi về những sách vở, đồ thư, cốt để cung cốt tài liệu và chỉ bảo học sinh
Chiêu văn quán (昭文館, Institute for the Glorification of Literature) là quán trông coi việc sao chép, sửa sang, hiệu đính tứ khố đồ thư
Tú lâm cục (秀林局, Cultivated Learning Service) là cục trông nom và dạy bảo con các quan viên
Năm Hồng Đức 23 (1492) thời Lê Thánh Tông, mùa đông, tháng 10, sai quan Hàn lâm làm khảo quan trong kỳ thi hương tại 4 ty thừa tuyên là Hải Dương, Sơn Nam, Tam Giang, Kinh Bắc, mỗi ty 4 viên. Quan Hàn lâm làm khảo quan thi hương bắt đầu từ đây., Hoàng giáp chức Hiệu lý; còn Tiến sĩ thì từ sau khi Trung Hưng, bắt đầu giao cho chức Giám sát, đến niên hiệu Bảo Thái lại theo chế độ cũ, bắt đầu trao cho chức Cấp sự trung; một người ít tuổi nhất được trao chức Hiệu thảo; người nào ứng thí chế khoa được trúng cách, cũng trao cho chức Hiệu thảo"
Hàn lâm viện thời Lê Trung Hưng
Tương tự thời Hồng Đức nguyên niên (1470). Thời này, chức vụ Học sĩ tại các điện, viện được bãi bỏ, ngoại trừ chức Đông các học sĩ vẫn còn được giữ. Việc xóa bỏ chức Học sĩ này tại các điện, viện không liên quan đến Hàn lâm viện vì thời Hồng Đức, chức Học sĩ tại Hàn lâm viện đã được bãi bõ.
Thời trước Lê Thánh Tông
Năm Thuận thiên 6 (1433) thời Lê Thái Tổ, mùa đông, tháng 11, Nguyễn Trãi vâng lệnh soạn văn bia Vĩnh Lăng, Hàn lâm viện đãi chế Vũ Văn Phỉ vâng lệnh viết chữ
Năm Thiệu Bình 4 (1437) thời Lê Thái Tông, lấy Hàn lâm viện hiệu khám Nguyễn Khắc Trung làm Tây đạo đại tư mã nha chủ bạ
Năm Thiệu Bình 4 (1437) thời Lê Thái Tông, lấy An phủ phó sứ lộ Nam Sách Thượng là Nguyễn Trực làm Hàn lâm viện thị giảng
Năm Đại Bảo 3 (1442) thời Lê Thái Tông, sai Hàn lâm viện thị độc học sĩ kiêm tri ngự tiền học sinh cục cận thị chi hậu Nguyễn Thiên Tích soạn bài văn bia Hựu Lăng
Năm Thái Hòa nguyên niên (1443) thời Lê Nhân Tông, sai Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu và các quan khác sang nhà Minh tạ ơn việc sách phong
Năm Thái Hòa 6 (1448) thời Lê Nhân Tông, lấy Hàn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu làm Thị giảng phụng thị kinh diên. Cùng năm, lấy Trạng nguyên Nguyễn Nghiêu Tư và Tiến sĩ Trịnh Kiêm làm Hàn lâm viện trực học sĩ và lấy Hàn lâm viện Trực học sĩ Nguyễn Khắc Hiếu làm Thị giảng phụng thị kinh diên
Năm Thái Hò