✨Hệ tọa độ cực

Hệ tọa độ cực

Các điểm trong hệ tọa độ cực với gốc cực O và trục cực L. Điểm màu xanh lá có bán kính là 3 và góc phương vị là 60°, tọa độ là (3, 60°). Điểm màu xanh dương có tọa độ là (4, 210°).

Trong toán học, hệ tọa độ cực là một hệ tọa độ hai chiều trong đó mỗi điểm bất kỳ trên một mặt phẳng được xác định bởi khoảng cách từ điểm đó tới một điểm gốc và góc từ hướng gốc cho trước. Điểm gốc đó (tương tự với gốc tọa độ trong hệ tọa độ Descartes) được gọi là gốc cực và tia vẽ từ gốc theo hướng gốc đã cho được gọi là trục cực. Khoảng cách từ điểm gốc được gọi là bán kính và góc đó được gọi là góc phương vị. Bán kính được ký hiệu là r hoặc ρ, còn góc phương vị được ký hiệu là φ, θ, hoặc t. Góc trong hệ tọa độ cực có thể được biểu diễn theo độ hoặc radian (2 rad bằng 360°).

Grégoire de Saint-Vincent và Bonaventura Cavalieri đưa ra các khái niệm trên một cách độc lập vào giữa thế kỷ 17, mặc dù thuật ngữ hệ tọa độ cực được cho là do Gregorio Fontana tìm ra vào thế kỷ 18. Sự ra đời của hệ tọa độ cực chủ yếu đến từ nghiên cứu chuyển động tròn và chuyển động theo quỹ đạo.

Hệ tọa độ cực hữu ích trong những trường hợp mà trong đó quan hệ giữa hai điểm dễ được viết dưới dạng góc và khoảng cách, chẳng hạn như các đường xoắn ốc. Có thể dễ dàng xây dựng một mô hình hệ vật lý phẳng gồm các chất điểm chuyển động quanh một điểm cố định thông qua hệ tọa độ cực.

Hệ tọa độ cực được mở rộng sang không gian ba chiều qua các hệ tọa độ trụ và cầu.

Lịch sử

thumb|Hipparchus|thế=|trái Khái niệm góc và bán kính đã được người xưa sử dụng từ thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Nhà thiên văn học Hipparchus (190-120 TCN) đã lập một bảng hàm các dây cung cho biết chiều dài dây cung cho mỗi góc. Có tài liệu cho rằng ông sử dụng tọa độ cực để thiết lập vị trí các thiên hà. Trong cuốn On Spirals (Bàn về tuyến xoắn), Archimedes đã mô tả xoắn ốc Archimedean, một hàm mà bán kính của nó phụ thuộc vào góc. Tuy nhiên, công trình của nhà khoa học Hy Lạp lại không mở rộng ra một hệ tọa độ đầy đủ.

Từ thế kỷ 8 trở về sau, các nhà thiên văn đã phát triển các phương pháp cho việc xấp xỉ và tính toán phương hướng và khoảng cách từ bất kỳ vị trí nào trên Trái Đất đến Thánh địa Mecca (qibla). Sau thế kỷ 9, họ đã sử dụng lượng giác hình cầu và các phép chiếu bản đồ để tính toán những con số này một cách chính xác. Việc tính toán về cơ bản là chuyển tọa độ cực xích đạo của Mecca thành tọa độ cực của chính Thánh địa đó so với một hệ thống có kinh tuyến tham chiếu là vòng tròn lớn qua các vị trí nhất định và các cực của Trái Đất, và có trục cực là đường thẳng qua các vị trí này và điểm đối cực của nó.

Có nhiều lý giải khác nhau của lời giới thiệu tọa độ cực như là một phần của một hệ tọa độ chính quy. Lịch sử đầy đủ của chủ đề này đã được mô tả trong Origin of Polar Coordinates của giáo sư Harvard Julian Lowell Coolidge. Grégoire de Saint-Vincent và Bonaventura Cavalieri giới thiệu các khái niệm vào giữa thế kỷ 17. Saint-Vincent đã viết chúng một cách riêng tư năm 1625 và xuất bản vào năm 1647, trong khi Cavalieri xuất bản công trình của ông vào năm 1635 và một phiên bản hiệu đính trong năm 1653. Lúc đầu Cavalieri sử dụng tọa độ cực để giải quyết một bài toán liên quan đến diện tích của xoắn ốc Archimedean. Sau đó Blaise Pascal sử dụng hệ tọa độ cực để tính độ dài của vòng cung parabol.

Trong cuốn Method of Fluxions (viết năm 1671, xuất bản năm 1736), Isaac Newton đã khảo sát sự chuyển đổi giữa hệ tọa độ cực, mà ông gọi là "Phương pháp Thứ bảy; Dành cho xoắn ốc", và chín hệ toạ độ khác. Trong tạp chí Acta Eruditorum (1691), Jacob Bernoulli đã sử dụng một hệ gồm một điểm nằm trên một đường thẳng, gọi là cựctrục cực tương ứng. Các tọa độ được xác định bằng khoảng cách từ cực và góc từ trục cực. Công trình của Bernoulli đã mở rộng cách tìm bán kính cong của các đường cong biểu diễn qua những tọa độ này.

Thực tế thuật ngữ tọa độ cực được công nhận do Gregorio Fontana đưa ra và được sử dụng bởi các nhà văn Ý thế kỷ 18. Thuật ngữ này xuất hiện trong tiếng Anh tại bản dịch Differential and Integral Calculus của Lacroix do George Peacock dịch năm 1816. Alexis Clairaut là người đầu tiên suy nghĩ về tọa độ cực trong không gian ba chiều, và Leonhard Euler là người đầu tiên thực sự phát triển các ý tưởng đó.

Góc φ được xác định là bắt đầu tại 0° từ hướng gốc và tăng dần khi quay ngược chiều hoặc cùng chiều kim đồng hồ. Trong toán học, hướng gốc là tia vẽ từ điểm gốc qua bên phải, và góc cực tăng lên giá trị dương khi quay ngược chiều kim đồng hồ, trong khi trong định hướng trục 0° được vẽ hướng lên và góc cực tăng dần khi quay cùng chiều kim đồng hồ. Khi quay ngược lại với chiều tương ứng thì góc cực giảm xuống giá trị âm.

Tính duy nhất của tọa độ cực

Thêm một vòng quay (360°) vào toạ độ góc không làm thay đổi phương hướng của góc ban đầu. Tương tự, một toạ độ bán kính âm nên được hiểu là khoảng cách dương tương ứng đo theo chiều ngược lại (thêm vào góc cực 180°). Do đó, một điểm có thể được biểu diễn bằng vô số các tọa độ cực khác nhau có dạng và , trong đó n là số nguyên bất kỳ. Hơn nữa, bản thân cực có thể được biểu diễn thành (0, φ) với mọi góc φ.

Trong trường hợp cần một biểu diễn duy nhất đối với mọi điểm ngoài góc cực, cần giới hạn r là các số không âm (r > 0) và φ nằm trong khoảng [0, 360°) hoặc (−180°, 180°] (trong đơn vị radian là [0, 2) hoặc (−, ]). Một quy ước khác dựa trên tập hợp đích của hàm arctan, cho phép giá trị của bán kính là một số thực khác không và giới hạn góc cực trong khoảng (−90°, 90°]. Trong mọi trường hợp, cần phải chọn một góc phương vị riêng cho cực, ví dụ, φ = 0.

Chuyển đổi giữa tọa độ cực và tọa độ Descartes

nhỏ|250x250px|Một biểu đồ minh họa mối quan hệ giữa tọa độ cực và tọa độ Descartes [[Tập tin:Cartesian to polar.gif|nhỏ|250x250px|Một đường cong trong mặt phẳng Descartes có thể được ánh xạ lên tọa độ cực. Trong hình ảnh động này, y = \sin (6x) + 2

được ánh xạ thành r = \sin (6 \theta) + 2. Nhấp vào hình để xem chi tiết.]] Các tọa độ cực _r_ và _φ_ có thể được chuyển đổi sang tọa độ Descartes _x_ và _y_ thông qua các hàm lượng giác sin và cosin: :\begin{align} x &= r \cos \varphi, \\ y &= r \sin \varphi. \end{align} Ngược lại, các tọa độ Descartes _x_ và _y_ có thể được chuyển đổi sang tọa độ cực _r_ và _φ_ với _r_ ≥ 0 và _φ_ nằm trong khoảng (−, ] theo công thức:

:r = \sqrt{x^2 + y^2} \quad (như trong định lý Pythagoras hoặc tiên đề Euclid), và

:\varphi = \operatorname{atan2}(y, x),

với atan2 là một biến thể phổ biến của hàm số arctan được định nghĩa là: :\operatorname{atan2}(y, x) = \begin{cases} \arctan\left(\frac{y}{x}\right) & \mbox{khi } x > 0\ \arctan\left(\frac{y}{x}\right) + \pi & \mbox{khi } x < 0 \mbox{ và } y \ge 0\ \arctan\left(\frac{y}{x}\right) - \pi & \mbox{khi } x < 0 \mbox{ và } y < 0\ \frac{\pi}{2} & \mbox{khi } x = 0 \mbox{ và } y > 0\ -\frac{\pi}{2} & \mbox{khi } x = 0 \mbox{ và } y < 0\ \text{KXĐ} & \mbox{khi } x = 0 \mbox{ và } y = 0. \end{cases} Nếu r được tính như trên thì hàm của φ có thể được phát biểu như sau, sử dụng hàm arccos: :\varphi = \begin{cases} \arccos\left(\frac{x}{r}\right) & \mbox{khi } y \ge 0 \mbox{ và } r \neq 0 \ -\arccos\left(\frac{x}{r}\right) & \mbox{khi } y < 0 \ \text{KXĐ} & \mbox{khi } r = 0. \end{cases}

Giá trị của góc φ ở trên là giá trị chủ yếu của hàm số phức arg áp dụng cho x + iy. Có thể thu được một góc trong khoảng [0, 2) bằng cách cộng 2 vào giá trị của nó trong trường hợp nó âm.

Phương trình cực của đường cong

Phương trình xác định một đường cong đại số được biểu diễn bằng tọa độ cực được gọi là phương trình cực. Trong nhiều trường hợp, có thể xác định một phương trình như vậy bằng cách biểu diễn r thành một hàm của φ. Đường cong thu được là tập hợp các điểm có dạng (r(φ), φ) và được gọi là đồ thị của hàm cực r.

Các dạng đối xứng hình học có thể được suy ra từ phương trình của hàm cực r. Nếu thì đường cong đối xứng qua tia nằm ngang (0°/180°), nếu thì nó đối xứng qua tia nằm dọc (90°/270°), và nếu thì nó đối xứng xoay bởi α theo chiều và ngược chiều kim đồng hồ quanh gốc cực.

Do tính chất đặc biệt của hệ tọa độ cực nên nhiều đường cong có thể được mô tả qua phương trình cực đơn giản khi dạng tọa độ Descartes của chúng phức tạp hơn. Một số đường cong phổ biến nhất gồm hoa cực, xoắn ốc Archimedean, đường lemniscat, đường ốc sên và đường hình tim (cardioid).

Đối với đường tròn, đường thẳng và bông hoa cực, không có điều kiện nào cho tập xác định và tập đích của mỗi đường.

Đường tròn

nhỏ|Một đường tròn có phương trình Phương trình tổng quát của đường tròn có tâm và bán kính a là :r^2 - 2 r r_0 \cos(\varphi - \gamma) + r_0^2 = a^2. Phương trình trên có thể được rút gọn theo nhiều cách khác nhau trong các trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như phương trình :r(\varphi)=a của đường tròn có tâm tại gốc cực và bán kính a.

Khi 0 = , hay gốc tọa độ nằm trên đường tròn thì phương trình trở thành :r = 2 a\cos(\varphi - \gamma). Trong trường hợp tổng quát, có thể giải phương trình trên để tìm : :r = r_0 \cos(\varphi - \gamma) + \sqrt{a^2 - r_0^2 \sin^2(\varphi - \gamma)}. Nghiệm của phương trình với dấu âm đặt trước căn cũng cho đường tròn giống nhau.

Đường thẳng

Đường thẳng hướng tâm (đi qua gốc cực) có phương trình :\varphi = \gamma, trong đó γ là góc nâng của đường thẳng, nghĩa là với m là hệ số góc của đường thẳng trong hệ tọa độ Descartes. Đường thẳng không hướng tâm vuông góc với đường thẳng hướng tâm tại điểm (r0, γ) có phương trình :r(\varphi) = r_0 \sec(\varphi - \gamma). Nói cách khác, (r0, γ) là giao điểm của tiếp tuyến với đường tròn ảo bán kính r0.

Bông hoa cực

nhỏ|Một bông hoa cực với phương trình Bông hoa cực là một đường cong toán học có dạng là bông hoa nhiều cánh và có phương trình cực là :r(\varphi) = a\cos\left(k\varphi + \gamma_0\right) với mọi hằng số γ0 (kể cả số 0). Nếu k là số nguyên thì đồ thị thu được là một bông hoa k cánh khi k lẻ và 2k cánh khi k chẵn. Nếu k là một số hữu tỉ không nguyên thì hình thu được gần giống một bông hoa nhưng các cánh hoa bị chồng lên nhau. Lưu ý rằng phương trình trên không xác định được bông hoa 2, 6, 10, 14,... cánh. Biến số a ảnh hưởng đến kích thước cánh hoa, trong khi k liên quan đến số cánh hoa của bông. Hằng số γ0 được gọi là góc pha.

Xoắn ốc Archimedean

Xoắn ốc Archimedean là một xoắn ốc do Archimedes tìm ra và có phương trình cực là

: r(\varphi) = a+b\varphi.

nhỏ|Một hướng xoắn của xoắn ốc Archimedean với phương trình khi Tham số a thay đổi làm quay xoắn ốc, còn b ảnh hưởng đến khoảng cách giữa các vòng xoắn (không thay đổi trong một xoắn ốc nhất định). Xoắn ốc Archimedean có hai hướng xoắn nối liền với nhau tại gốc cực, một hướng khi và hướng còn lại khi . Khi chiếu một hướng xoắn qua trục 90°/270° thì ảnh phản xạ thu được là hướng xoắn còn lại. Đây là một trong những đường cong đầu tiên sau đường conic được ghi nhận và mô tả trong toán học chính luận, và là một ví dụ điển hình về đường cong được xác định rõ nhất qua phương trình cực.

Đường conic

nhỏ|250x250px|Một elip, trong đó có hiển thị bán trục bên Một đường conic với một tiêu điểm trên gốc cực và tiêu điểm còn lại nằm trên tia 0° (sao cho trục lớn của đường conic nằm trên trục cực) được cho bởi

: r = { \ell\over {1 - e \cos \varphi

với e là độ lệch tâm và \ell là bán trục bên (khoảng cách vuông góc từ một tiêu điểm trên trục lớn đến đường conic). Phương trình trên xác định một hyperbol khi , parabol khi , elip khi và một đường tròn bán kính \ell khi .

Giao điểm của hai đường cong cực

Số phức

Giải tích

Mối liên hệ với tọa độ hình cầu và tọa độ hình trụ

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
Các điểm trong hệ tọa độ cực với gốc cực _O_ và trục cực _L_. Điểm màu xanh lá có bán kính là 3 và góc phương vị là 60°, tọa độ là (3, 60°).
phải|nhỏ|300x300px|Hệ [[Hệ tọa độ cầu|tọa độ cầu được sử dụng phổ biến trong _vật lý_ . Nó gán ba số (được gọi là tọa độ) cho mọi điểm trong không gian Euclide: khoảng cách xuyên
nhỏ|Hệ tọa độ xích đạo|257x257px **Hệ tọa độ xích đạo** là hệ tọa độ thiên văn được sử dụng nhiều cho các quan sát bầu trời từ Trái Đất. Nó là hệ tọa độ gắn
phải|nhỏ|350x350px|Hệ tọa độ chân trời sử dụng một [[thiên cầu lấy tâm là người quan sát. Góc phương vị được đo từ điểm bắc (nhưng đôi khi từ điểm nam) và thuận theo hướng đông
thumb|Hệ **tọa độ hoàng đạo** với tâm đặt tại [[Trái Đất, được nhìn từ phía ngoài thiên cầu. Hoàng kinh (màu đỏ) được đo dọc theo hoàng đạo từ điểm xuân phân. Hoàng vĩ (màu
Bản đồ [[Trái Đất cho thấy các vĩ tuyến (ngang) và kinh tuyến (dọc), phép chiếu Eckert VI; [https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/reference_maps/pdf/political_world.pdf phiên bản lớn] (pdf, 1.8MB)]] **Hệ tọa độ địa lý** là một _hệ tọa độ_ cho
nhỏ|217x217px|Các thiên hà và cụm thiên hà được vẽ trên mặt phẳng siêu thiên hà trong phạm vi < 50 triệu [[năm ánh sáng.]] Những năm 1950 nhà thiên văn Gérard de Vaucouleurs người Pháp
Trong thiên văn học, **hệ tọa độ thiên văn** là một hệ tọa độ mặt cầu dùng để xác định vị trí biểu kiến của thiên thể trên thiên cầu. Trong tọa độ Descartes, một
nhỏ|Hệ tọa độ thiên hà lấy [[Mặt Trời làm điểm gốc. Kinh độ thiên hà () được đo với hướng cơ bản từ Mặt Trời tới trung tâm của Ngân Hà trên mặt phẳng Ngân
thumb **Tọa độ trên Mặt Trăng** được dùng để chỉ vị trí trên bề mặt Mặt Trăng của Trái Đất. Bất kỳ vị trí nào trên bề mặt Mặt Trăng được thể hiện bằng hai
Trong thiên văn học, **xuân phân** là một trong hai vị trí trên thiên cầu mà tại đó hoàng đạo giao với đường xích đạo thiên thể. Mặc dù có hai giao điểm của hoàng
phải|nhỏ|301x301px|Cực quỹ đạo bắc của các hành tinh lớn trong [[hệ Mặt Trời đều nằm trong chòm sao Thiên Long. Điểm màu vàng ở trung tâm biểu diễn cực bắc Mặt Trời, còn lại là
thumb|Thiên cực Bắc, thiên cực Nam và mối tương quan với [[Quay|trục quay, mặt phẳng quỹ đạo và độ nghiêng trục quay.]] **Thiên cực**, bao gồm thiên cực Bắc và thiên cực Nam, là 2
**Quan hệ ngoại giao giữa Tòa Thánh và Việt Nam** trong lịch sử chưa bao giờ được thiết lập chính thức mặc dù Việt Nam là một quốc gia có số lượng giáo dân Công
Trong hình học, **độ cong** thể hiện sự lệch hướng tại một điểm trên đường cong, mặt cong hay không gian Riemann nói chung. ## Độ cong của một đường cong ### Định nghĩa Theo
Trong vật lý, hệ quy chiếu khối tâm (cũng là **hệ quy chiếu động lượng** hoặc hệ quy chiếu tổng động lượng bằng không, tiếng Anh: centerof-momentum viết tắt **COM**) của một hệ là hệ
**Hoàng đạo** hay **mặt phẳng hoàng đạo** là đường đi biểu kiến của Mặt Trời trên thiên cầu. Các nhà thiên văn cũng xét đến mặt phẳng chứa hoàng đạo, nó đồng phẳng với quỹ
[[Tập tin:Ra and dec demo animation small.gif|phải| Xích kinh và **xích vĩ** khi nhìn từ trong thiên cầu. Hướng quy chiếu của hệ chỉ theo điểm xuân phân, kinh độ của điểm nút lên của
right|thumb|350x350px|Hình 1(a): Biểu đồ Bode cho một [[bộ lọc thông cao bậc một (một cực); xấp xỉ tuyến tính được dán nhãn "Bode pole" (cực Bode); pha thay đổi từ 90° ở tần số thấp
thumb|Bản đồ địa hình với các đường đồng mức thumb|Phần của bản đồ nói trên được biểu diễn kiểu địa hình bóng [[:en:shaded relief|shaded relief, minh họa các đường đồng mức thể hiện địa vật]]
Phải|Hệ Mặt Trời với Mặt Trời ở trung tâm phải|Hệ nhật tâm (bên dưới) so sánh với mô hình địa tâm (bên trên) Trong thiên văn học, **mô hình nhật tâm** là lý thuyết cho
nhỏ|300x300px|Các đường thẳng kinh độ của [[hệ tọa độ thiên hà. Những trục vuông góc trong hình phân chia Ngân Hà thành bốn góc phần tư.]] Một **góc phần tư thiên hà** (tiếng Anh: _galactic
Trong thiên văn học, một **kỷ nguyên** là một khoảng thời gian, dùng như là một điểm tham chiếu cho một số lượng các sự kiện thiên văn có thời gian khác nhau, như các
**Góc thiên đỉnh Mặt Trời** là góc giữa các tia song song của Mặt Trời và phương thẳng đứng. Nó là góc phụ với góc cao Mặt Trời, tức là góc chiếu của các tia
right|thumb|Một biểu đồ Nyquist. **Biểu đồ Nyquist** là một biểu đồ tham số của một đáp ưng tần số được sử dụng trong điều khiển tự động và xử lý tín hiệu. Ứng dụng phổ
**Bản đồ địa chất** là một bản đồ chuyên ngành phục vụ cho mục đích đặc biệt thể hiện các yếu tố địa chất. Trên bản đồ địa chất các tập đất đá hoặc tầng
Trong thiên văn học và điều hướng thiên thể, **góc giờ** là một trong những tọa độ được sử dụng trong hệ tọa độ xích đạo để đưa ra hướng của một điểm trên thiên
phải|nhỏ|Hình động mô phỏng Trái Đất đang xoay quanh trục với thiên cầu tưởng tượng bao quanh (đường kính thiên cầu là không cố định và có độ lớn tùy biến) phải|Thiên cầu được chia
nhỏ|phải|Chân trời trên biển được nhìn ở [[Wisconsin, Hoa Kỳ.]] nhỏ|Một hình ảnh khá độc đáo mà những [[nhà du hành vũ trụ thường gặp. Đường chân trời chia thành các lớp đầy màu sắc,
phải|nhỏ|Sơ đồ cho thấy mối liên hệ giữa thiên đỉnh, [[thiên để và một số loại đường chân trời khác nhau. Chú ý rằng thiên đỉnh là điểm đối diện với thiên để.]] Trong thiên
thumb|Các điểm cực trị của Nhật Bản được đánh dấu trên bản đồ. Các **điểm cực trị của Nhật Bản** bao gồm những tọa độ xa nhất về các hướng bắc, nam, đông và tây
nhỏ|Kinh tuyến trên thiên cầu. **Kinh tuyến trên** của một người quan sát, một hình bán nguyệt, đi qua thiên đỉnh của họ và các điểm phía bắc và phía nam của đường chân trời
[[Tập tin:Ra and dec demo animation small.gif|phải| **Xích kinh** và xích vĩ khi nhìn từ trong thiên cầu. Hướng quy chiếu của hệ chỉ theo điểm xuân phân, kinh độ của điểm nút lên của
right|thumb|Xích đạo thiên cầu hiện nay nghiêng một góc khoảng 23.44° so với mặt phẳng [[hoàng đạo. Hình trên cho thấy liên hệ giữa độ nghiêng trục quay Trái Đất (_obliquity_), trục quay, và mặt
phải|nhỏ|Tự quay (lục), Tuế sai (lam), Chương động (đỏ) **Chương động** là chuyển động không đều rất nhỏ trong trục tự quay của một hành tinh, vì các lực thủy triều sinh ra tuế sai
Biểu đồ chỉ ra mối quan hệ giữa [[thiên đỉnh, thiên để và các kiểu khác nhau của đường chân trời. Lưu ý là thiên để luôn ngược lại với thiên đỉnh.]] Trong thiên văn
**Bản đồ học** hay **Đồ bản học** là khoa học nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp mối liên hệ giữa các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và
Trong cơ học, **hệ quy chiếu** là một hệ tọa độ, dựa vào đó vị trí của mọi điểm trên các vật thể và vị trí của các vật thể khác được xác định, đồng
Trong thiên văn học, **sao quanh cực** là một ngôi sao mà khi được quan sát từ một vĩ độ địa lý cho trước không bao giờ lặn xuống dưới đường chân trời do có
**Cục Điều tra Liên bang Mỹ** (tên gốc viết tắt là _FBI_) là cơ quan tình báo và an ninh nội địa của Hoa Kỳ và là cơ quan thực thi pháp luật liên bang
**Lục địa Nam Cực** hay **châu Nam Cực** (, phát âm hay ; còn được gọi là **Nam Cực**) là lục địa nằm xa về phía nam và tây nhất trên Trái Đất, chứa Cực
**Tượng Nữ thần Tự do** (; tên đầy đủ là **Nữ thần Tự do Soi sáng Thế giới**; ; ) là một tác phẩm điêu khắc bằng đồng theo phong cách tân cổ điển với
**Vĩ độ** (Tiếng Anh: _latitude_) thường được ký hiệu bằng chữ cái phi (\phi\,\!) trong bảng chữ cái Hy Lạp, là giá trị xác định vị trí của một điểm trên bề mặt Trái Đất
nhỏ|phải|Minh họa phép chiếu lập thể 3 chiều từ cực bắc đến mặt phẳng dưới khối cầu Trong hình học, **phép chiếu lập thể ** hay **phép chiếu nổi** là một phép ánh xạ chiếu
**Kinh độ** (Tiếng Anh: _longitude_) được ký hiệu bằng chữ cái tiếng Hy Lạp lambda (λ), là giá trị tọa độ địa lý theo hướng đông-tây, được sử dụng phổ biến nhất trong bản đồ
**Lịch sử Ấn Độ độc lập** bắt đầu khi Ấn Độ trở thành quốc gia độc lập trong Khối Thịnh vượng chung Anh vào ngày 15 tháng 8 năm 1947. Kể từ năm 1858, người
**Động đất và sóng thần Ấn Độ Dương 2004**, được biết đến trong cộng đồng khoa học như là **Cơn địa chấn Sumatra-Andaman**, là trận động đất mạnh 9.3 _M_w xảy ra dưới đáy biển
nhỏ|Tòa Hoàng gia, biểu tượng cho Hệ thống pháp luật Anh quốc **Pháp luật Anh** là hệ thống pháp luật được áp dụng cho toàn xứ Anh và xứ Wales được xây dựng cơ sở
**Chủ nghĩa tự do** là một hệ tư tưởng, quan điểm triết học, và truyền thống chính trị dựa trên các giá trị về tự do và bình đẳng. Chủ nghĩa tự do có nguồn
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:More_China_040.JPG|nhỏ|Mặt tiền trụ sở Tòa án nhân dân tối cao ở [[Bắc Kinh, Trung Quốc.]] **Tòa án nhân dân tối cao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa** là cơ quan xét xử cao nhất của