✨Bản đồ địa hình

Bản đồ địa hình

thumb|Bản đồ địa hình với các đường đồng mức thumb|Phần của bản đồ nói trên được biểu diễn kiểu địa hình bóng [[:en:shaded relief|shaded relief, minh họa các đường đồng mức thể hiện địa vật]] thumb|

Hệ thống Chỉ số Bản đồ Toàn cầu đầu tiên, hiện đang được dùng ở Việt Nam, Liên Xô cũ, và nhiều nước khác. thumb|Phần Bản đồ địa hình vùng [[Nablus ở West Bank, Trung Đông, với Khoảng cao đều 100 m, vùng cao được tô mã màu]] Bản đồ địa hình trong đồ bản hiện đại, là loại bản đồ biểu diễn chi tiết và định lượng các đặc trưng của địa hình địa vật theo một hệ tọa độ địa lý xác định.

Định nghĩa truyền thống đòi hỏi một bản đồ địa hình phải hiển thị các chi tiết của cả thiên nhiên và con người tạo ra. Định nghĩa hiện đại thì do Trung tâm Thông tin Canada đưa ra: Bản đồ địa hình là biểu diễn đồ họa đầy đủ và chính xác các chi tiết văn hóa và tự nhiên trên mặt đất.

Trên Bản đồ địa hình, bề mặt đất liền và đáy biển của Trái Đất được biểu diễn bằng các đường đồng mức, là đường nối các điểm có cùng độ cao xác định, và các đường đồng mức khác nhau thì không giao nhau. Các chi tiết khác thì biểu diễn bằng ký hiệu theo một quy ước nào đó, và ở các nước khác nhau thì thường không hẳn được thống nhất. Thiếu thống nhất cũng xảy ra trong lựa chọn hệ tọa độ địa lý và phương pháp chiếu, tức là cách chuyển tải tọa độ đối tượng trên mặt đất vốn cong lên mặt giấy phẳng.

Bản đồ địa hình thường được công bố như là một loạt tờ bản đồ, có thể gồm nhiều tấm bản đồ ghép lại. Các tấm này được đánh chỉ số (Index) sao cho nó đơn nhất trên toàn thế giới.

Bản đồ địa hình cũng có thể được lập cho các hành tinh và vệ tinh, tùy theo mức độ số liệu thu thấp được.

Lịch sử

Các quy ước

Phần chính của bản đồ địa hình là địa hình biểu diễn bằng đường đồng mức, có khoảng cao đều tùy thuộc địa hình và tỷ lệ bản đồ. Đường đồng mức gián đoạn ở các sườn dốc, núi đá,... Tại vùng đồng bằng có thể thêm các đồng mức phụ, chẳng hạn mức +2,5 m biểu diễn bằng nét đứt . Các điểm cao hoặc điểm đặc trưng thường có giá trị độ cao ghi kèm.

Các vùng nước được xác định theo độ cao của mực nước trung bình, ví dụ mặt Biển Chết là -429 m, mặt hồ Ba Bể ở Việt Nam là +145 m, và từ đó xác định ra ranh giới vùng nước, hay đường bờ vùng nước. Vùng nước thường được tô màu lam nhạt (lam sáng màu), đôi chỗ có ghi giá trị độ cao. Mảng vùng nước không gắn với độ cao xác định, tức là mảng của một con sông thì độ cao mực nước có thể khác nhau, ví dụ như mực nước sông Hồng khác nhau tại Lào Cai và tại Nam Định.

Các đối tượng khác nhau được thể hiện trên bản đồ bằng các dấu hiệu hoặc biểu tượng, đôi khi kèm theo chữ tên hay kiểu đối tượng. Ví dụ, phân loại đường sá bằng kiểu vẽ đường và màu vẽ. Các suối có phân biệt theo mùa nước. Độ che phủ thực vật thì là mảng màu và biểu tượng nhóm cây kèm theo tên loại cây phổ biến ở đó, ví dụ "khộp".

Các dấu hiệu hoặc biểu tượng được chú giải ở ô chú giải, lập cho nhóm tấm bản đồ cho những đối tượng có trong nhóm đó, tức là có thể không có ở một vài tấm. Thường thì không đưa vào biểu tượng cho đối tượng không có ở vùng đó. Điều này dẫn đến thực tế biên tập biểu tượng đôi khi là theo thói quen của phái những người tham gia biên soạn. Ví dụ tại Việt Nam trên bản đồ 1:50000 đối tượng miếu thờ được biên tập chi tiết ở các tờ phía nam, nhưng ít thấy ở các tờ phía bắc.

Tỷ lệ và độ chính xác

Tỷ lệ của bản đồ là tỷ số giữa một khoảng cách đo trên bản đồ và khoảng cách ngoài thực địa. Nó thường biểu diễn ở dạng 1:M, với M chỉ khoảng cách thực tế lớn gấp bao nhiêu lần khoảng cách tương ứng đo trên bản đồ. Ví dụ bản tỷ lệ 1:50.000 thì 1 cm ứng với 500 m ngoài thực địa.

Bản đồ có tỷ lệ lớn thì càng chi tiết và tương ứng với số M nhỏ. Bản đồ tỷ lệ nhỏ kém chi tiết hơn và có số M lớn.

Độ chính xác tọa độ các địa vật được quy ước là 0,3 mm trên bản đồ, ví dụ ở tỷ lệ 1:100000 là 30 m. Tuy nhiên với đối tượng dạng đường hay đa giác thì ảnh hưởng của đồ hình làm nó không mang nhiều ý nghĩa.

Nguồn dữ liệu lập bản đồ

Các bản đồ hiện đại là kết quả của một quá trình sản xuất phức tạp, bắt đầu với việc lập kế hoạch và thực hiện chuyến bay để chụp ảnh trên không. Các máy lập thể quang học hoặc số hóa, được sử dụng để chuyển đổi hình ảnh ra bản đồ theo hệ thống tọa độ ấn định.

Ảnh vệ tinh đang thay thế dần ảnh máy bay. Kết quả được kết hợp kế thừa các thông tin bản đồ đã có, để cho ra phiên bản mới phù hợp thực tế hơn. Công nghệ mới cho ra dữ liệu số hóa.

Nguồn dữ liệu tên các đối tượng, trong đó có địa danh, vốn là vấn đề phức tạp. Nó được biên tập theo quy tắc "tốt nhất có thể", và do đó được chia ra các nhóm nguồn:

Các điều tra trực tiếp, là nguồn cho tên lần đầu tiên được đưa lên bản đồ, hoặc hiệu đính tên đã có.

Kế thừa từ các biên tập có trước.

Vay mượn từ những bản đồ nước khác khi không có điều kiện tiếp cận đối tượng.

Lập bản đồ tại Việt Nam

Tại Việt Nam trước đây các tên phần lớn kế thừa từ bản đồ do người Pháp lập cho Đông Dương thời những năm 1940 về trước. Hiện nay cơ sở dữ liệu "tên" được coi là đầy đủ cho vùng. Tuy nhiên hoạt động "nhập vào, tách ra, chuyển đơn vị, nâng hạ cấp hành chính" diễn ra liên miên, nên bản đồ vừa lập ra đã bị lạc hậu về hành chính.

Từ năm 2006 Bộ Tài nguyên và Môi trường đã biên tập và ban hành dần dần các bản quy chuẩn như "Danh mục lưu vực sông liên tỉnh" , "Danh mục địa danh dân cư, sơn văn, thủy văn, kinh tế - xã hội phục vụ công tác thành lập bản đồ" cho các tỉnh thành .

Trong thực tế các văn bản pháp quy này mắc nhiếu lỗi biên tập ở dạng nói ngọng và sai dấu, làm sai lệch tên gọi dẫn đến chúng chẳng thể làm quy chuẩn được. Ví dụ đối tượng "sông Nậm Nhé" (theo các bản đồ địa hình 2004) thì trong [https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Tai-nguyen-Moi-truong/Quyet-dinh-1989-QD-TTg-Danh-muc-luu-vuc-song-lien-tinh-113887.aspx Danh mục sông liên tỉnh QĐ 1989/QĐ-TTg] và [https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Xay-dung-Do-thi/Thong-tu-44-2013-TT-BTNMT-Danh-muc-dia-danh-dan-cu-son-van-kinh-te-xa-hoi-lap-ban-do-Lai-Chau-218458.aspx Danh mục địa danh tỉnh Lai Châu] viết là "Nậm Nhè", còn trong [https://thukyluat.vn/vb/thong-tu-47-2013-tt-btnmt-danh-muc-dia-danh-dan-cu-son-van-thuy-van-kinh-te-xa-hoi-dien-bien-35591.html Danh mục địa danh tỉnh Điện Biên] lại viết là "nặm Nhé" trong khi tên các bản vẫn ghi là nậm. "Danh mục địa danh tỉnh Lai Châu" ghi đối tượng "suối Nùng Than" ở xã Vàng Ma Chải thành suối Lùng Thàn .

Tại Việt Nam có hai cơ sở chính đảm trách thu thập và biên tập bản đồ:

  • Cục Bản đồ Quân đội Nhân dân Việt Nam
  • Công ty Đo đạc ảnh địa hình thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam, Bộ Tài nguyên và Môi trường. thumb|Nội dung Bản đồ địa hình của Việt Nam

    Nội dung

    Bản đồ địa hình gồm phần đồ họa chính, khung tọa độ và các chỉ dẫn. Nội dung chính thiên về mục đích quân sự và quản lý lãnh thổ, nên các địa vật ảnh hưởng tới tác chiến được ưu tiên thể hiện.

  • Phần đồ họa chính, hay tự thân của bản đồ, biểu diễn đồ họa địa hình theo đường đồng mức, ranh giới quốc gia và hành chính, khu dân cư, mạng lưới giao thông, mức độ và loại thực vật che phủ đất, các khối nhà hay công trình xây dựng,... Các vách dốc như núi đá vôi thì thường có ký hiệu riêng và ghi chú. Trên biển và vùng nước thì có đường đồng mức đáy, các tuyến đường thủy, luồng lạch, loại vật liệu đáy và thực vật đáy nếu có, cũng như các chướng ngại. Một số ký hiệu địa vật có thể to hơn kích thước thật theo tỷ lệ bản đồ. Các tên hay ký hiệu chữ thì cỡ chữ đại diện cho mức quan trọng cần quan tâm.
  • Lưới tọa độ thường không có dạng chữ nhật, do biểu diễn theo hình chiếu. Bản đồ tỷ lệ nhỏ cho vùng rộng lớn thì méo dạng càng lớn. Khung bản đồ thường cắt theo lưới tọa độ, nhưng khi cần trình bày cho đẹp, ví dụ bản ghép toàn bộ quốc gia, thì cắt hình chữ nhật.
  • Rìa bản đồ, là tên mảnh, các thông tin biên tập, tỷ lệ, các chỉ dẫn bằng văn bản hay hình vẽ, và vị trí ghép với các mảnh khác,...

Ngôn ngữ

Bản đồ thường được biên soạn bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia xuất bản và lưu hành. Tuy nhiên khi hệ ký tự của ngôn ngữ có thể gây khó khăn trong sử dụng quốc tế, như tiếng Hoa, Lào, Thái,... hoặc khi biên soạn phần lãnh thổ của nước khác nhưng có để ý đến tính đa dụng, thì thường biên soạn đa ngữ. Phần lớn thường ghi kèm tên hoặc chỉ dẫn bằng chữ Latin, với cách chuyển tự do nước biên soạn quy định.

thumb|Bản đồ của Lào xuất bản có ghi các tên chuyển tự Latin cùng với chữ Lào.

  • Bản đồ của Việt Nam xuất bản là đơn ngữ tiếng Việt . Hầu hết tên đối tượng trong nước Việt đã được điều tra và hiệu đính. Tuy nhiên một số vùng trong nước, và các vùng ngoài nước, vẫn kế thừa nhiều tên từ bản đồ cũ, trong đó có cả tên làng bản. Tên nhiều làng bản ở xã Nghĩa Thuận huyện Quản Bạ, Hà Giang, bản đồ 1:50.000 tờ F-48-18-D, vẫn ghi phiên âm Latin của tiếng Trung, như bản "Yi Wan Shui", "Ku Zhu Wan",... Một số tên buôn làng ở vùng Tây Nguyên cũng vẫn còn ghi theo tên cũ. Phần lãnh thổ Trung Quốc được ghi bằng phiên âm Latin của tiếng Trung, ví dụ "Yuan Jiang" cho Nguyên Giang, là phần đầu nguồn của sông Hồng. ** Phần lãnh thổ Lào, Campuchia thì hỗn tạp của kế thừa từ bản đồ cũ lẫn sửa mới theo phát âm tiếng Việt.
  • Bản đồ của Anh, Hoa Kỳ và vùng ảnh hưởng xuất bản thì theo "tiêu chuẩn chuyển ngữ sang chữ Latin" các địa danh của ngôn ngữ phi Latin, tên thường tham chiếu là "chuẩn Latin hóa BGN/PCGN", được hai tổ chức là Ban Địa danh Hoa Kỳ (BGN, United States Board on Geographic Names) và Ủy ban thường trực về Địa danh cho sử dụng chính thức ở nước Anh (PCGN, Permanent Committee on Geographical Names for British Official Use) lập ra.
  • Bản đồ của Lào xuất bản có kèm chữ Latin theo quy cách phiên âm và chuyển tự do Ủy ban Quốc gia Lào về Địa danh (Lao Commission Nationale de Toponymie) đưa ra khoảng những năm 1960. Chuẩn Latin hóa BGN/PCGN cho tiếng Lào sử dụng quy cách này .
  • Bản đồ của Thái Lan xuất bản có kèm chữ Latin theo quy cách chuyển tự được chính phủ quy định trong "Hệ thống Chuyển tự Tiếng Thái Hoàng gia" (Royal Thai General System of Transcription).

Tại Liên Hợp Quốc thì Nhóm chuyên viên về Địa danh Liên Hợp Quốc đảm trách việc quy chuẩn phiên âm và chuyển tự địa danh, đưa ra khuyến nghị về sử dụng quy chuẩn đó .

Ứng dụng

Bản đồ địa hình, đặc biệt là loại tỷ lệ lớn, biểu diễn đầy đủ và chính xác bề mặt Trái Đất, là dữ liệu cơ bản cho quản lý đất đai lãnh thổ, cho các nghiên cứu, điều tra khoa học, quy hoạch kinh tế, thiết kế và xây dựng các cơ sở kinh tế, giao thông, các đường ống dẫn,...

Bản đồ địa hình chính thức được cơ quan nhà nước xuất bản phục vụ lợi ích quốc gia, quốc phòng và an ninh công cộng. Tại nhiều nước, trong đó có Việt Nam, các bản đồ địa hình được coi là tài liệu mật. Tại Việt Nam dấu "MẬT" hiện vẫn có trong các bản in và bản điện tử. Trước năm 1980 bản đồ được sử dụng theo quy chế tài liệu mật, các bản hỏng phải được một hội đồng thanh lý, và các trường hợp đánh mất có thể gây phiền toái cho người dùng. Tuy nhiên hiện nay bản đồ được bán tràn lan.

Các dẫn xuất là bản đồ lược trích, được xuất bản để làm nền cho bản đồ chuyên đề khoa học kỹ thuật khác, như bản đồ địa chất, thủy văn, thổ nhưỡng, thực vật, dân cư,... và cả nhu cầu dân sinh như bản đồ du lịch, giao thông dân sự,... Các đối tượng lược bỏ là phần hoạt động quân sự quan tâm: đường đồng mức chi tiết, độ cao các cao điểm, chỉ dẫn về các đặc điểm địa vật như độ dốc taluy,...

Tác động của bản đồ tới địa danh

Tên đối tượng do từng nhóm biên tập khác nhau thực hiện vào thời gian và hoàn cảnh khác nhau, nên khi đưa lên bản đồ lần đầu tiên thì khó tránh khỏi sự "chưa chuẩn xác" và thiếu thống nhất. Dẫu vậy nếu không quá sai lệch thì tên đưa lên được thừa nhận, và việc trích xuất sang bản đồ cho môn học địa lý góp phần vào phổ biến những tên đó. Tại Việt Nam, và ở vùng Đông Dương nói chung, bản đồ do người Pháp lập ra đã tác động đến tên sông và một số địa danh.

Việc truy tìm thượng nguồn và ghi thống nhất theo tên điển hình cho nhiều sông, đã làm mất đi nhiều tên địa phương của từng đoạn sông. Ví dụ sông Hồng ngày nay được coi là vào đất Việt Nam ở bản Lũng Po xã A Mú Sung, huyện Bát Xát, bỏ đi những tên như "sông Thao",...

Một số ít tên vùng do người Pháp ghi, nay trở thành địa danh chính thức. Ví dụ tên "Lào Cai" có nguồn gốc từ Bản đồ Bắc Kỳ năm 1879, là bản đồ đầu tiên do Jean Dupuis lập ra, đã ghi tên "Lao-kai, residence du Chef des Pavillone noirs" (Lao-kai, dinh thủ lĩnh quân Cờ đen). Đây là vị trí của "Chợ Cũ" lúc đó, theo tiếng H'Mông là "Lao Cai", và nay là phường Lào Cai. Sau này người Pháp quen dùng nên thành tên của thủ phủ vùng và của tỉnh .

Số hóa bản đồ

Từ những năm 1990 việc số hóa bản đồ địa hình đã được bắt đầu. Ví dụ như tại Cục Trắc địa và Đồ bản CHLB Đức (Bundesamt für Kartographie und Geodäsie), và đến nay đã hoàn thiện ở các tỷ lệ.

Tại Việt Nam, việc số hóa bắt đầu muộn hơn một chút, khi các phần mềm biên tập bản đồ được nhập khẩu và qua giai đoạn thử nghiệm. Đến nay [http://www.bandovn.vn/vi/ban-do-dia-hinh-7 Bản đồ địa hình chính thức] ở tỷ lệ đến 1:50 000 theo Hệ toạ độ quốc gia Việt Nam VN2000 đã hoàn thiện số hóa năm 2004, do Trung tâm Thông tin Dữ liệu Đo đạc và Bản đồ thuộc Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam [http://mapvn.vn/ quản lý và phát hành] cho các mục đích công vụ.

OpenStreetMap

Dựa theo dữ liệu bản đồ thế giới, các dạng trực quan của bản đồ địa hình được đưa ra ở Dự án [http://www.openstreetmap.org/ OpenStreetMap] và Shuttle Radar Topography Mission.

Chỉ dẫn

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
thumb|Bản đồ địa hình với các đường đồng mức thumb|Phần của bản đồ nói trên được biểu diễn kiểu địa hình bóng [[:en:shaded relief|shaded relief, minh họa các đường đồng mức thể hiện địa vật]]
**Bản đồ địa chất** là một bản đồ chuyên ngành phục vụ cho mục đích đặc biệt thể hiện các yếu tố địa chất. Trên bản đồ địa chất các tập đất đá hoặc tầng
nhỏ|Bản đồ thế giới do [[Johannes Kepler]] nhỏ|Bản đồ thế giới năm 2016 **Bản đồ** là hình thu nhỏ tương đối chính xác về một khu vực hay cả Trái Đất. Bản vẽ đơn giản
thumbthumb **Bản đồ giấy cói Torino** là một bản đồ của người Ai Cập cổ đại, được xem là bản đồ địa chất còn tồn tại lâu đời nhất, Bên cạnh việc nó là một
**Bản đồ học** hay **Đồ bản học** là khoa học nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp mối liên hệ giữa các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và
thumb|Bản đồ địa hình với [[đường đồng mức]] thumb|upright|[[Hình ảnh vệ tinh biểu thị độ cao của trung tâm đô thị của vùng đô thị New York, với đảo Manhattan ở trung tâm.]] **Địa hình
nhỏ|Ví dụ về hồ sơ địa hình Một **hồ sơ địa hình** hoặc **mặt** **cắt địa hình** là một đại diện cho cấu trúc của địa hình có được bằng cách cắt ngang các đường
**Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam** (tiếng Anh: _Department Of Survey, Mapping and Geographic Information Viet_, viết tắt là **DOSM**) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và
thumb|_Núi Marcy [[quận Essex, New York_: một bản đồ tứ giác của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ năm 1892 (hoặc _bản đồ địa hình_) của núi Marcy, khu vực của Adirondacks, bang New
nhỏ|phải|Địa hình thế giới 3D nhỏ|phải|Bản đồ địa hình thế giới **Địa hình**, phần mặt đất với các yếu tố trên bề mặt của nó như dáng đất, chất đất, thủy hệ, lớp thực vật,
thumb|Các mũi tên đứng thể hiện **phần lồi địa hình** của ba đỉnh trên một hòn đảo. Các đường nét đứt nằm ngang thể hiện các [[đường đồng mức thấp nhất không bao quanh đỉnh
Bờ biển tây của Scotland, nhìn cách bờ [[Mull of Kintyre]] **Bản đồ Ba Lan Vĩ đại của Scotland** (tiếng Anh: _Great Polish Map of Scotland_), còn được gọi **Bản đồ Scotland Barony** (_Barony Map
Trắc Địa Đại Cương Nội dung sách gồm những vấn đề trắc địa cơ bản và cần thiết cho chương trình đào tạo một kỹ sư xây dựng, đó là định vị điểm, định hướng
Địa đồ sơn xuyên phủ Quảng Ngãi trong tập _Hồng Đức Bản Đồ_ **Bản đồ Hồng Đức**, tức **Hồng Đức bản đồ sách** (chữ Hán: 洪德版圖冊), đôi khi được gọi là **Hồng Đức địa dư**
**Tỉ lệ của một bản đồ** là tỉ số giữa một khoảng cách đo trên bản đồ và khoảng cách ngoài thực địa. Nó chỉ rõ mức độ thu nhỏ của khoảng cách được vẽ
thumb|[[Edmond Halley's _New and Correct Chart Shewing the Variations of the Compass_ (1701), bản đồ thể hiện các được đẳng từ thiên.]] **Bản đồ chuyên đề** là một loại bản đồ thể hiện một chủ
**Công ty Đo đạc ảnh địa hình** tiền thân là **Liên đoàn Trắc địa địa hình I**, Công ty được thành lập ngày 19 tháng 6 năm 1987. Trụ sở chính của Công ty đặt
**Thăm dò trọng lực** (Gravimetry) là một phương pháp của _Địa vật lý_, thực hiện đo Trọng trường Trái Đất để xác định ra phần _dị thường trọng lực_, từ đó xác định phân bố
nhỏ|phải|Ảnh chụp bên ngoài một cửa hàng cho thuê băng đĩa hình ở thành phố [[Austin, Texas|Austin, bang Texas, Mỹ.]] nhỏ|phải|Kệ trưng bày đĩa DVD ở một cửa hàng cho thuê băng đĩa của hãng
nhỏ|Bản đồ độ sâu của Loihi Seamount phải|nhỏ| Biểu đồ độ sâu của hồ Bear **Biểu đồ độ sâu** tương đương với bản đồ địa hình trên mặt nước. Biểu đồ độ sâu được thiết
nhỏ|350x350px| Phép chiếu hình nón đồng góc ở hai vĩ tuyến chuẩn 20º và 50º. Điểm cực Nam nằm ở vô hạn nên tấm bản đồ trên đã được cắt ở vĩ độ 30º nhỏ|350x350px|
nhỏ|Đống đổ nát [[chuyến bay 901 của Air New Zealand, một tai nạn do CFIT xảy ra vào năm 1979 ở Nam Cực.]] Một **chuyến bay có kiểm soát vào địa hình** (**CFIT** viết tắt
Bản đồ [[Trái Đất cho thấy các vĩ tuyến (ngang) và kinh tuyến (dọc), phép chiếu Eckert VI; [https://www.cia.gov/library/publications/the-world-factbook/reference_maps/pdf/political_world.pdf phiên bản lớn] (pdf, 1.8MB)]] **Hệ tọa độ địa lý** là một _hệ tọa độ_ cho
thumb|right|Độ sâu trên Trái Đất hiên tại (nguồn _National Geophysical Data Center_ [http://www.ngdc.noaa.gov/mgg/topo/ TerrainBase Digital Terrain Model].) **Phép đo sâu** nghiên cứu địa hình đáy của _hồ_ hoặc đáy biển. Bản đồ địa hình đáy
Tấm bản đồ Piri Reis Tấm **bản đồ Piri Reis** được khám phá năm 1929 khi cung điện Topkapi ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ đang được cải tạo thành một viện bảo tàng. Nó là
**Ấn Độ** (, ), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Ấn Độ** (, ) là một quốc gia ở khu vực Nam Á. Đây là quốc gia lớn thứ 7 về diện tích và
thumb|upright=1.4|[[Đất xấu khắc vào đá phiến sét dưới chân cao nguyên Bắc Caineville, Utah, trong đèo được khắc bởi sông Fremont và được gọi là the Blue Gate. Grove Karl Gilbert đã nghiên cứu các
**Địa lý Sao Hỏa** là một lĩnh vực con của khoa học hành tinh, chuyên phân định và mô tả đặc điểm địa lý của các vùng của Sao Hỏa. Địa lý Sao Hỏa giống
**Tây Ban Nha** ( ), tên gọi chính thức là **Vương quốc Tây Ban Nha** (), là một quốc gia có chủ quyền với lãnh thổ chủ yếu nằm trên bán đảo Iberia tại phía
**Địa vật lý** là một ngành của _khoa học Trái Đất_ nghiên cứu về các quá trình vật lý, tính chất vật lý của Trái Đất và môi trường xung quanh nó. Phạm trù địa
**Địa chất kĩ thuật** là ứng dụng của Địa chất học - là môn khoa học nghiên cứu về các vật chất rắn và lỏng cấu tạo nên Trái Đất, đúng ra là nghiên cứu
thumb **Trắc địa** hay **trắc đạc** hay **đo đạc** là một ngành khoa học về Trái Đất, cụ thể là đo đạc và xử lý số liệu đo đạc địa hình và địa vật nằm
Bản đồ địa hình khu vực bán đảo Bạch Long Vĩ - bán đảo Trà Cổ. **Bạch Long Vĩ** (chữ Hánː 白龍尾 hay 白竜尾, nghĩa: _đuôi rồng trắng_) là tên gọi Việt Nam của một
**Địa chấn học** là một lĩnh vực quan trọng của địa vật lý, là khoa học nghiên cứu về _động đất_ và sự lan truyền _sóng địa chấn_ (Seismic waves) trong Trái Đất hoặc hành
**Thăm dò từ** (Magnetic Method) là một phương pháp của Địa vật lý, thực hiện đo từ trường Trái Đất để phân định ra phần _dị thường từ_, từ đó xác định phân bố mức
thumb|[[Bản đồ địa hình của Nhật Bản]] thumb|Hình ảnh vệ tinh của Nhật Bản là một nhóm gồm 6.852 hòn đảo tạo thành đất nước Nhật Bản. Nó kéo dài hơn 3.000 km (1.900 dặm) từ
nhỏ|250x250px| [[Sao Hỏa bằng kính viễn vọng. ]] **Địa hình albedo** là một khu vực rộng lớn trên bề mặt của một hành tinh (hoặc thiên thể hệ mặt trời khác) cho thấy sự tương
**Địa vật lý máy bay**, còn gọi là _Địa vật lý hàng không_ (Airborne Geophysics) là một lĩnh vực của _Địa vật lý thăm dò_, dùng máy bay làm phương tiện để bay đo các
Một ví dụ về đường đồng mức.**Đường đồng mức** còn gọi là **đường bình độ** hay **đường đẳng cao** là đường thể hiện trên bản đồ địa hình quỹ tích của các điểm trên mặt
**Địa vật lý thăm dò** (Exploration Geophysics), đôi khi gọi là **vật lý địa chất**, là chi nhánh của **địa vật lý ứng dụng** (Applied Geophysics), sử dụng các trường hoặc quá trình vật lý
phải|nhỏ|250x250px|Bản đồ địa hình Bhutan **Bhutan** là một quốc gia có chủ quyền nằm ở ngã tư đường giữa Đông Á và Nam Á, nằm về phía cực đông của dãy núi Himalaya. Quốc gia
thumb|_Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư_ do Đạo Phủ soạn **Toản tập Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư** (, nghĩa là _Tập bản đồ chỉ dẫn đi đường ở trời Nam_)
thumb|Đo TDEM bằng trực thăng **Thăm dò điện từ miền thời gian** (tiếng Anh: _Time-Domain Electromagnetics_, viết tắt là TDEM; hoặc _Transient Electromagnetics_, viết tắt là TEM) là một phương pháp của Địa vật lý
Bản đồ quy hoạch Phú Quốc, Kiên Giang là một tài liệu quan trọng trong quá trình quản lý và phát triển đô thị của khu vực. Bản đồ này thường được thực hiện bởi
Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ **Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ** (Hán văn phồn thể: 坤輿萬國全圖; bính âm: _Kūnyú Wànguó Quántú_; tiếng Ý: _Carta Geografica Completa di tutti i Regni del Mondo_, "Bản đồ
**Đài Loan** là một hòn đảo và một quần đảo tại Đông Á, bao gồm đảo Đài Loan và một số đảo nhỏ hơn xung quanh như quần đảo Bành Hồ, Lan tự, Lục đảo,
**Độ dốc của luồng** là cấp được đo bằng tỷ lệ giảm độ cao của luồng trên một đơn vị khoảng cách ngang, thường được biểu thị bằng đơn vị mét trên km hoặc feet
**Địa chính** đề cập đến một cuốn sách trong đó một quốc gia ghi lại các điều kiện cơ bản của đất đai. Nội dung của nó thường bao gồm vị trí, ranh giới, quyền
**Tỉnh tự trị Do Thái** (, _Yevreyskaya avtonomnaya oblast_; , _yidishe avtonome gegnt_) là một chủ thể liên bang của Nga (một tỉnh tự trị) nằm ở Viễn Đông Nga, giáp với vùng Khabarovsk và
**_Gấu đỏ biến hình_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Turning Red_**) là một bộ phim hoạt hình trên máy tính của Mỹ, ra mắt vào tháng 3 năm 2022 trên dịch vụ xem phim trực tuyến