✨Bản đồ địa chất

Bản đồ địa chất

Bản đồ địa chất là một bản đồ chuyên ngành phục vụ cho mục đích đặc biệt thể hiện các yếu tố địa chất.

Trên bản đồ địa chất các tập đất đá hoặc tầng địa chất được thể hiện bằng màu sắc cùng với các ký hiệu, để chỉ ra nơi chúng lộ ra ở bề mặt và các thông tin đặc trưng về chúng. Các tầng nền và các yếu tố cấu trúc như các đứt gãy, nếp uốn, phân lớp, và các đường phương được thể hiện bằng các biểu tượng thích hợp, và các biểu tượng dịch chuyển cho các định hướng ba chiều này.

Các ký hiệu đường phương và hướng dốc bao gồm một đường thẳng dài và một đường ngắn thẳng góc nhau giống chữ T nhưng có chân ngắn hơn dùng để chỉ hướng nghiêng của lớp đá. Đường kéo dài chỉ đường phương, là đường giao tuyến của mặt phẳng nằm ngang và mặt lớp, giá trị số ghi kèm theo để chỉ góc cắm của lớp so với mặt phẳng nằm ngang, và đường ngắn dùng để chỉ hướng cắm của lớp đá.

Đôi khi các đường đồng mức địa tầng được vẽ ứng với bề mặt của một địa tầng dưới sâu được chọn, vì vậy chúng có thể thể hiện xu hướng địa hình của địa tầng dưới mặt đất. Không phải lúc nào cũng thể hiện được các yếu tố này một cách chính xác, nhất là khi đặc điểm địa chất khu vực cực kỳ phức tạp.

Lập bản đồ địa chất và các vấn đề địa tầng là lĩnh vực đồi hỏi hợp tác quốc tế rộng rãi, được Liên đoàn Quốc tế các ngành Khoa học Địa chất (IUGS, International Union of Geological Sciences) quan tâm, đặc biệt là của Ủy ban quốc tế về địa tầng học (ICS, International Commission on Stratigraphy) trong việc xây dựng Bản đồ các tỉnh địa chất toàn cầu

Lịch sử

Bản đồ địa chất cổ nhất được bảo tồn đó là Turin papyrus, được lập vào khoảng nằm 1150 TCN để vẽ các tích tụ vàng ở Ai Cập.

Câu chuyện được nhiều người quan tâm về bản đồ địa chất hiện đại đầu tiên được nói đến trong tác phẩm bản đồ làm thay đổi thế giới (The Map that Changed the World) của Simon Winchester. Đó là câu chuyện về William Smith, một người đào kênh đã tạo ra bản đồ địa chất đầu tiên của Đảo Anh vào năm 1819, nhưng sau đó bị bỏ tù vì mắc nợ và sống cảnh không nhà gần 10 năm cho đến khi Vua William IV công nhận công trình của ông vào năm 1831.

Nội dung bản đồ địa chất

Bản đồ địa chất được lập theo các "tỷ lệ bản đồ" nhất định, thể hiện mức độ chi tiết cần thiết cho biểu hiện các đối tượng địa chất. Bản đồ địa chất được xuất bản thành từng tờ theo tờ của bản đồ địa hình cùng tỷ lệ, và được đánh số hoặc gọi tên theo chỉ số của bản đồ địa hình. Ở các cấp tỷ lệ nhất định thì thiết kế viền khung các tờ được tính toán sao cho có thể dán ghép các tờ lại thành tờ bản đồ toàn quốc. Tại Việt Nam việc dán ghép này thực hiện được cho tỷ lệ 1:250.000 đến 1:1.000.000.

Bản đồ địa chất gồm phần đồ họa chính, khung tọa độ và các chỉ dẫn. Khung tọa độ và nền địa hình địa vật được lược bớt, làm nền cho phần đồ họa địa chất.

Phần đồ họa chính của bản đồ là nội dung chính, thể hiện phân bố các yếu tố địa chất, kiến tạo và khoáng sản. Các tập đất đá hoặc tầng địa chất được thể hiện bằng màu sắc cùng với các ký hiệu về địa tầng, để chỉ ra nơi chúng lộ ra ở bề mặt và các thông tin đặc trưng về chúng. Các tầng nền và các yếu tố cấu trúc như các đứt gãy, nếp uốn, phân lớp,... được thể hiện bằng các biểu tượng thích hợp. Các trầm tích phân lớp thì có nêu đường phương và hướng dốc tại các vị trí điển hình.

Các chỉ dẫn có ba phần, gồm chỉ dẫn địa tầng, chỉ dẫn địa hình, và mặt cắt địa chất điển hình. Chỉ dẫn địa tầng bao gồm tất cả các địa tầng có mặt trong các tờ bản đồ và được xếp theo trình tự địa thời, thường đặt bên phải, và có thể được xuất bản thành tờ riêng. Chỉ dẫn địa hình, và mặt cắt địa chất điển hình theo những tuyến đặc trưng, đặt ở bên dưới và là đặc trưng riêng của tờ.

Tại Việt Nam biên tập bản đồ địa chất thực hiện theo các quy chuẩn, nhằm đảm bảo độ chính xác, tin cậy và phù hợp với quy ước quốc tế. Hiện nay "Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 phần đất liền" được ban hành trong Thông tư Số 23/2012/TT-BTNMT ngày 28 tháng 12 năm 2012 của Bộ Tài nguyên và Môi trường. Các quy chuẩn hoặc quy trình như vậy quy định những công đoạn thực hiện khi thành lập bản đồ, đặc biệt là các dạng và khối lượng công việc thu thập tài liệu thực địa cần thực hiện để đảm bảo mức độ chi tiết ở tỷ lệ bản đồ cần thành lập.

Bản đồ và thành lập các bản đồ trên thế giới

nhỏ|Bản đồ địa chất [[Bắc Mỹ chồng lên trên bản đồ địa hình bóng mờ]]

Hoa Kỳ

Ở Hoa Kỳ, các bản đồ địa chất thường được vẽ chồng lên trên bản đồ địa hình (và các bản đồ nền khác) cùng với việc tô màu và các ký hiệu khác để thể hiện các kiểu đơn vị địa chất khác nhau. Màu thể hiện cho các đá gốc lộ ra trên bề mặt, thậm chí bị phủ bởi các đất hoặc các dạng lớp phủ khác. Mỗi một màu thể hiện cho một đơn vị địa chất hoặc một thành hệ đá riêng biệt (khi có nhiều thông tin được thu thập thì sẽ chia tách thành một đơn vị địa chất mới). Tuy nhiên, ở một vài nơi khi mà đá gốc bị phủ bởi các tích tụ chưa cố kết có ý nghĩa quan trọng như các tầng sét tảng lăn, tích tụ thềm, hoàng thổ, hoặc chúng mang các đặc điểm quan trọng khác thì chúng cũng được thể hiện. Các đường đẳng trị địa tầng, các đường đứt gãy, các ký hiệu đường phương và hướng dốc được thể hiện bằng các ký hiệu khác nhau và được xem là chìa khóa để đọc hiểu bản đồ. Trong khi đó, các bản đồ địa hình được sản xuất bởi Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ có sự hợp tác với các tiểu bang thì các bản đồ địa chất thường được thành lập bởi từng tiểu bang. Như vậy, sẽ có một vài tiểu bang không có các bản đồ địa chất trong khi đó một vài tiểu bang khác như Kentucky thì có rất nhiều bản đồ địa chất được thành lập.

Vương quốc Anh

Vương quốc Anh và đảo Man đã được thành lập một khối lượng lớn các bản đồ địa chất bởi Cục khảo sát địa chất Anh (BGS) từ năm 1835; Cục Khảo sát Địa chất Bắc Ireland đã hoạt động từ năm 1947.

Có hai bản đồ địa chất tỷ lệ 1:625.000 đã được thành lập phủ kín toàn UK. Các tờ bản đồ chi tiết hơn cũng đã được thành lập ở tỷ lệ 1:250.000, 1:50.000 và 1:10.000. Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:625.000 và 1:250.000 đã phủ kín các vùng đất liền và vùng biển (loạt bản đồ tỷ lệ 1:250.000 phủ kín toàn thềm lục địa của UK, còn các tỷ lệ lớn hơn thì chỉ phủ trên phần đất liền.

Các tờ theo tất cả các tỷ lệ (không phải cho tất cả các khu vực) được chia thành 2 nhóm:

Các bản đồ tích tụ bề mặt (trước đây được gọi là bản đồ đá cứng và bồi tích) thể hiện cả đá gốc các tích tụ phủ lên bề mặt của nó.

Các bản đồ đá gốc (trước đây được gọi là bản đồ đá cứng) thể hiện các lớp đá nằm bên dưới lớp trầm tích bề mặt.

Các bản đồ này đều được chồng lên trên nền bản đồ địa hình được sản xuất bởi Cục hậu cần (Ordnance Survey?), và sử dụng các ký hiệu để biểu diễn các đường đứt gãy, đường phương và hướng cắm hoặc các đơn vị địa chất, các lỗ khoan... Màu sắc được sử dụng để thể hiện các đơn vị địa chất khác nhau. Các bản thuyết minh cũng được viết cùng với các tờ bản đồ ở tỷ lệ 1:50.000.

Các bản đồ chuyên đề tỷ lệ nhỏ (1:1.000.000 đến 1:100.000) cũng được thành lập như bản đồ địa hóa, dị thường trọng lực, dị thường từ, nước dưới đất.

thumb|Khái lược Bản đồ địa chất Việt Nam 1:1.000.000 phần đất liền.

Bản đồ địa chất Việt Nam

Tại Việt Nam, và Đông Dương nói chung, từ khi xâm chiếm Đông Dương thực dân Pháp đã chú ý đến điều tra và khai thác tài nguyên khoáng sản. Sở Địa chất Đông Dương được thành lập năm 1898, đặt trụ sở tại Hà Nội. Trong thời gian dài bản đồ địa chất được thành lập ở dạng sơ đồ các vùng khảo sát, phục vụ trước hết cho khai thác khoáng sản. Đến năm 1952 "Bản đồ Địa chất Đông Dương" tỷ lệ 1:2.000.000 đã được thành lập do Jacques Fromaget và Saurin E. chủ biên .

Sau khi chiến tranh Đông Dương chấm dứt, tại miền bắc Việt Nam đoàn chuyên gia Liên Xô do Dovjikov A. E. lãnh đạo đã tiến hành các nghiên cứu thực địa, và năm 1963 đã xuất bản Bản đồ địa chất Bắc Việt Nam tỷ lệ 1:500.000..

Đến nay bản đồ địa chất Việt Nam đã được thành lập trên toàn quốc phần đất liền ở tỷ lệ 1:1.000.000, 1:500.000 và 1:250.000 theo Hệ tọa độ quốc gia VN-2000 và được lưu giữ ở Bảo tàng Địa chất. Các bản đồ này được thực hiện bởi các liên đoàn Bản đồ Địa chất trực thuộc Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam. Các bản đồ chi tiết hơn ở tỷ lệ 1:50.000 đang trong giai đoạn phủ kín các vùng/miền quan trọng chiếm 30% diện tích lãnh thổ . Các bản đồ này được vẽ trên nền bản đồ địa hình được xuất bản bởi Cục Đo đạc và Bản đồ Việt Nam và Liên đoàn Trắc địa Địa hình.

Năm 2012 bản "Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về lập bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1: 50.000 phần đất liền" đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành.

thumb|Chỉ dẫn tiếng Việt/Anh ở bản đồ địa chất, tờ Hà Nội, 2005

Thuật ngữ địa chất học ở Việt Nam

Thuật ngữ địa chất học ở Việt Nam thường được nhập từ các nguồn nước ngoài. Kiểu nhập qua từ Hán Việt thường được thực hiện bởi các nhà địa chất làm việc trước năm 1954, hay ở miền nam trước năm 1975, cùng với một số được đào tạo từ Trung Quốc và những người chịu ảnh hưởng của họ đang làm việc ở các ngành khác nhau.

Tuy nhiên trong ngành địa chất của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trước đây, cũng như trong chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, sử dụng cách thức nhập thuật ngữ theo dạng phiên âm từ tiếng theo hệ chữ Latin, cụ thể là tiếng Pháp và Anh. Có hai yếu tố hồi những năm 1950-1960 ảnh hưởng đến chọn lựa này, là:

Cuộc vận động làm trong sáng tiếng Việt, hướng đến phiên âm trực tiếp các từ nước ngoài mà tên Hán-Việt còn "ít phổ biến", như Bungary thay cho Bảo-gia-lợi, Hunggary cho Hung-gia-lợi, Argentina cho Á-căn-đình,... (trừ ra một số cặp từ đang bị tranh chấp cách sử dụng như Italia / Ý và Ôxtrâylia / Úc).

Ngành địa chất còn non trẻ, được các chuyên gia Liên Xô giúp đỡ, nên việc nhập thuật ngữ từ phiên âm latin dễ dàng.

Vì thế Bản đồ Địa chất Bắc Việt Nam 1:500.000 được lập ra năm 1963 đã được biên soạn theo phong cách biên tập thuật ngữ như đã nêu. Một số nhóm thuật ngữ cụ thể là:

  • Tên các địa tầng, địa thời sử dụng các tên gốc latin, trừ ra kỷ Đệ Tamkỷ Đệ Tứ. Ví dụ dùng Archaeozoi, Proterozoi, Creta,... mà không dùng "Thái cổ", "Nguyên Sinh", "Phấn trắng",...
  • Tên các đá thì Việt hóa nếu có thể, ví dụ dùng cát kết, đá phiến sét,... hoặc dùng phiên âm tên gốc chữ Latin như felspat, mà không dùng "sa thạch", "diệp thạch", "tràng thạch".

Phong cách biên tập và sử dụng thuật ngữ nói trên trở thành phong cách chung của ngành địa chất Việt Nam, và được tuân theo đến hiện nay. Vì thế khi trao đổi với những người đang làm việc trong ngành địa chất Việt Nam mà dùng thuật ngữ theo từ Hán Việt thì có thể làm họ lúng túng vì không biết nghĩa từ.

Trong "Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về lập bản đồ địa chất khoáng sản... 2012" có quy định ở mục "Viết tên và ký hiệu khoáng vật".

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Bản đồ địa chất** là một bản đồ chuyên ngành phục vụ cho mục đích đặc biệt thể hiện các yếu tố địa chất. Trên bản đồ địa chất các tập đất đá hoặc tầng
thumb|Bản đồ địa hình với các đường đồng mức thumb|Phần của bản đồ nói trên được biểu diễn kiểu địa hình bóng [[:en:shaded relief|shaded relief, minh họa các đường đồng mức thể hiện địa vật]]
thumbthumb **Bản đồ giấy cói Torino** là một bản đồ của người Ai Cập cổ đại, được xem là bản đồ địa chất còn tồn tại lâu đời nhất, Bên cạnh việc nó là một
nhỏ|Bản đồ thế giới do [[Johannes Kepler]] nhỏ|Bản đồ thế giới năm 2016 **Bản đồ** là hình thu nhỏ tương đối chính xác về một khu vực hay cả Trái Đất. Bản vẽ đơn giản
**Lịch sử địa chất học** ghi chép quá trình phát triển của địa chất học. Địa chất học là khoa học nghiên cứu về nguồn gốc, lịch sử và cấu trúc của Trái Đất. Trong
**Trường Đại học Mỏ – Địa chất** (tiếng Anh: _Hanoi University of Mining and Geology_) là một trường đại học đa ngành hàng đầu tại Việt Nam, thuộc nhóm 95 trường đại học hàng đầu
**Địa chất học** là môn khoa học nghiên cứu về các vật chất rắn và lỏng
**Địa chất kĩ thuật** là ứng dụng của Địa chất học - là môn khoa học nghiên cứu về các vật chất rắn và lỏng cấu tạo nên Trái Đất, đúng ra là nghiên cứu
thumb| Bản đồ cấu trúc của mỏ Erath, [[Louisiana, Hoa Kỳ trong mô hình với các đường đẳng sâu được hiển thị bằng các màu sắc khác nhau.]] **Mô hình địa chất** là sản phẩm
**Thành hệ địa chất**, **hệ tầng địa chất** hay **tằng hệ địa chất** (nói ngắn gọn là **thành hệ**, **hệ tầng**, hay **tằng hệ**) là đơn vị cơ bản của thạch địa tầng. Một thành
thumb|right|Bản đồ địa chất của Sao Hoả thumb|right|Hình ảnh Sao Hoả được chụp bởi [[Kính viễn vọng không gian Hubble]] **Địa chất của Sao Hỏa** là nghiên cứu bề mặt, lớp vỏ, và lõi bên
**Thăm dò địa nhiệt** (Geothermal exploration) là một phương pháp _Địa vật lý_ nghiên cứu sự phân bố, phát tán nhiệt, và truy tìm nguồn phát nhiệt trong lòng đất. Nghiên cứu địa nhiệt phát
thumb|Bảo tàng Địa chất Đông Dương năm 1914 **Bảo tàng Địa chất** là một bảo tàng chuyên ngành ở Việt Nam, lưu giữ các mẫu vật liên quan đến địa chất - khoáng sản.. _Bảo
thumb|upright=1.3|[[Bản đồ địa chất của nửa nhìn thấy được của Mặt Trăng (độ phân giải cao, click để phóng to)]] nhỏ|300x300px|Nhà khoa học của Viện Smithsonia Tom Watters nói về các hoạt động địa chất
**Bản đồ học** hay **Đồ bản học** là khoa học nghiên cứu và phản ánh sự phân bố không gian, sự phối hợp mối liên hệ giữa các đối tượng, hiện tượng tự nhiên và
**Cục Đo đạc, Bản đồ và Thông tin địa lý Việt Nam** (tiếng Anh: _Department Of Survey, Mapping and Geographic Information Viet_, viết tắt là **DOSM**) là cơ quan trực thuộc Bộ Tài nguyên và
thumb|_Núi Marcy [[quận Essex, New York_: một bản đồ tứ giác của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ năm 1892 (hoặc _bản đồ địa hình_) của núi Marcy, khu vực của Adirondacks, bang New
**Hiệp hội Địa chất Pháp** viết tắt SGF (La Société géologique de France) được thành lập ngày 17 tháng 3 năm 1830. Vào năm 2006, hội có 1200 thành viên, và năm 2009 có khoảng
thumb|Các địa tầng nguyên thủy nằm ngang bị biến dạng do ứng suất. **Địa chất cấu trúc** hay **địa chất cấu tạo** là nghiên cứu về sự phân bố ba chiều không gian của các
**Thăm dò từ** (Magnetic Method) là một phương pháp của Địa vật lý, thực hiện đo từ trường Trái Đất để phân định ra phần _dị thường từ_, từ đó xác định phân bố mức
**Viện Địa chất** là một viện khoa học thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (trước là Viện Khoa học Việt Nam rồi Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công
Biểu đồ thang thời gian địa chất. **Lịch sử địa chất Trái Đất** bắt đầu cách đây 4,567 tỷ năm khi các hành tinh trong hệ Mặt Trời được tạo ra từ tinh vân mặt trời,
**Công viên địa chất Non nước Cao Bằng** là một công viên địa chất quốc gia có diện tích hơn 3390 km² nằm tại vùng đất địa đầu của Việt Nam thuộc tỉnh Cao Bằng, bao
**Liên hiệp Khoa học Địa chất Quốc tế** hay **Liên đoàn Quốc tế các ngành Khoa học Địa chất**, viết tắt theo tiếng Anh là **IUGS** (International Union of Geological Sciences) là một tổ chức
**Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam** (tiếng Anh: _General Department of Geology and Minerals of Viet Nam_, viết tắt **DGMV**) là cơ quan trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường, thực hiện
**Địa vật lý máy bay**, còn gọi là _Địa vật lý hàng không_ (Airborne Geophysics) là một lĩnh vực của _Địa vật lý thăm dò_, dùng máy bay làm phương tiện để bay đo các
**Trần Thanh Hải** (1965) là giáo sư, tiến sĩ địa chất, hiệu trưởng trường Đại học Mỏ Địa Chất Hà Nội. ## Sự nghiệp Trần Thanh Hải theo học đại học chuyên ngành Địa chất
Nhà giáo Nhân dân, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học **Trần Nghi** (sinh năm 1947) là một nhà khoa học nổi tiếng trong lĩnh vực Địa chất Trầm tích có nhiều cống hiến trong khoa
Các **Phương pháp thăm dò phóng xạ** là nhóm các phương pháp của Địa vật lý Thăm dò, thực hiện đo đạc các bức xạ của đất đá, nhằm xác định sự có mặt của
**Bồn địa Nam Cực–Aitken** (bồn địa SPA, ) là một hố va chạm khổng lồ ở mặt phía xa của Mặt Trăng. Với đường kính và độ sâu giữa , nó là một trong những
Địa chất cấu tạo là môn học trọng tâm có tính ứng dụng cao trong chuyên ngành Tìm kiếm khoáng sản và Điều tra địa chất tại các trường trung cấp nghề. Là môn học
Danh sách này bao gồm các khu vực được chỉ định là **công viên địa chất** ở cấp độ quốc gia. Lưu ý rằng, các công viên này không nên nhầm lẫn với các thành
**Mạng lưới Công viên Địa chất Toàn cầu**, viết tắt **GGN** theo tên tiếng Anh _Global Geoparks Network_, là một mạng lưới hỗ trợ của UNESCO phục vụ quản lý trong Ủy ban Khoa học
**Địa chất dầu khí** đề cập đến những ứng dụng của địa chất học trong việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác hydrocarbon. ## Phân tích bồn trầm tích Địa chất dầu khí phân
thumb|Các mức độ địa chấn cao nhất cho từng khu vực của [[Động đất và sóng thần Tōhoku 2011#Động đất|Trận động đất ngày 11 tháng 3 năm 2011 được thể hiện theo thang địa chấn
phải|nhỏ|**Nhà địa chất** đang miêu tả lõi khoan vừa thu thập. nhỏ|phải|Các nhà địa chất khảo sát các đá trầm tích [[kỷ Jura|Jura ở Makhtesh Gadol, sa mạc Negev, Israel.]] **Địa chất** là môn khoa
**Công viên địa chất Lạng Sơn** Công viên địa chất Lạng Sơn được thành lập ngày 13/12/2021 theo Quyết định số 2424/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn. Công viên địa chất Lạng
**Thăm dò Điện Phân cực kích thích**, viết tắt là **PKKT**, (tiếng Anh: _Induced Polarization_, IP) hay **Phân cực cảm ứng** là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, trong đó bố trí
**Công viên địa chất Đắk Nông** là một công viên địa chất có diện tích 4.760 km², trải dài trên địa bàn 5 huyện: Krông Nô, Cư Jút, Đắk Mil, Đắk Song, Đắk Glong và thành
**Công viên địa chất Novohrad – Nógrád** là một công viên nằm giữa biên giới của Hungary và Slovakia. Đây là một trong những công viên địa chất liên quốc gia đầu tiên trên thế
**Thăm dò điện trở** (Resistivity survey), là một phương pháp của địa vật lý thăm dò, bố trí phát dòng điện vào đất đá và đo hiệu điện thế tại các vị trí thích hợp
Niên đại địa chất [[Trái Đất và lịch sử hình thành sự sống 4,55 tỉ năm]] **Niên đại địa chất** được sử dụng bởi các nhà địa chất và các nhà khoa học khác để
Mặt cắt của [[Trái Đất từ lõi tới tầng ngoài (quyển ngoài) của khí quyển.
1. _Crust_-Lớp vỏ (địa chất)
2. _Upper Mantle_-Quyển Manti trên
3. _Mantle_-Quyển Manti dưới
4. _Outer core_-Lõi ngoài
5. _Inner
**Kinh tế địa chất** quan tâm đến các loại vật liệu trên Trái Đất mà có thể sử dụng vào mục đích kinh tế hoặc công nghiệp. Các loại vật liệu này bao gồm các
thumb|[[Edmond Halley's _New and Correct Chart Shewing the Variations of the Compass_ (1701), bản đồ thể hiện các được đẳng từ thiên.]] **Bản đồ chuyên đề** là một loại bản đồ thể hiện một chủ
thumb|Máng nước sâu Mariana hình thành ở ranh giới [[ranh giới hội tụ|hai mảng kiến tạo hút nhau]] **Địa chất biển** liên quan việc khảo sát địa vật lý, địa hóa, trầm tích và cổ
thumb|Biểu trưng của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ **Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ** (tiếng Anh: **U**nited **S**tates **G**eological **S**urvey, viết tắt **USGS**) là một cơ quan khoa học của chính phủ
phải|nhỏ|Các nếp uốn rất gần nhau, ở gần [[Moruya, New South Wales, Australia]] Trong địa chất học, **nếp uốn** là dạng biến đổi bề mặt địa hình do quá trình nâng lên hay hạ xuống
thumb|Đo TDEM bằng trực thăng **Thăm dò điện từ miền thời gian** (tiếng Anh: _Time-Domain Electromagnetics_, viết tắt là TDEM; hoặc _Transient Electromagnetics_, viết tắt là TEM) là một phương pháp của Địa vật lý
**Thăm dò Điện trường thiên nhiên** (Self Potential hay Spontaneous Potential, SP) là một phương pháp của _Địa vật lý thăm dò_, bố trí đo điện trường có sẵn trong thiên nhiên bằng các _điện