✨Giáo hoàng Piô VII

Giáo hoàng Piô VII

Piô VII là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo.

Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở ngôi trong 23 năm 5 tháng 6 ngày. Niên giám tòa thánh năm 2003 xác định ngày đắc cử Giáo hoàng là ngày 14 tháng 3 năm 1800, ngày khai mạc chức vụ mục tử đoàn chiên chúa là ngày 21 tháng 3 và kết thúc triều đại của mình vào ngày 20 tháng 8 năm 1823.

Trước khi thành giáo hoàng

Gia đình

Pius VII có tên khai sinh là Barnaba Nicolò Maria Luigi Chiaramonti sinh ngày 14 tháng 8 năm 1740 tại Cesena, Romagne, Ý. Là con trai của bá tước Scipiona Chiaramonti và mẹ là nữ nam tước Giovanna Chiaramonti. Ông thuộc một gia đình quý tộc xưa đã bị sa sút, có quan hệ bà con với gia đình Braschi (Pius VI xuất thân từ gia đình này).

Vào đan viện Biển Đức

Lúc 9 tuổi, ông được cho đan viện Bênêđictô Santa-Maria del Monte, ở Cesena. Năm 1756, lúc 14 tuổi, ông được nhận làm tập sinh. Hai năm sau, ông mặc áo dòng dưới tên Grêgôriô. Ông học ở đan viện Santa Giustina của Pađua, bị tòa thẩm tra nghi là theo thuyết Jansenius rồi ở Sant’Anselmo, tại Rôma.

Trong số người ký nhận Tự điển Lý Luận các khoa học, nghệ thuật và nghề nghiệp, (1751-72) có tên Luigi Chiaramonti. Ông giao cho Valadier sửa lại Piazza del Popolo nổi tiếng và tái lập Tu Hội Chúa Giêsu.

Ngày 21 tháng 9 năm 1765, ông được thu phong linh mục và sau đó ít lâu nhận bằng tiến sĩ thần học. Sau đó giảng dạy ở đan viện San-Giovani của Parma, đất quận công cởi mở với những ý tưởng mới. Lúc bấy giờ, ông tán thành quyển Bách khoa từ điển của Đỉeot và tỏ ra tò mò với những ý tưởng của Locke và Condillac.

Ông phiên dịch quyển Essai sur l’origine des connaissances humaines (Tiểu luận về nguồn gốc các kiến thức của con người). Năm 1775, ông quay về học viện Sant’Anselmo với tư cách là giáo sư. Sau đó, ông được bổ nhiệm làm viện phụ thực thụ của đan viện Bênêđictô.

Tổng Giám mục và hồng y

Năm 1782, ông nhận từ người anh họ và là đồng hương của ông, Pius VI áo tổng Giám mục Tivoli.

Hai năm sau, khi ông 42 tuổi, ông được nhận mũ hồng y và giáo phận Imola.

Năm 1796, giáo phận của ông bị xâm chiếm bởi các đoàn quân Pháp do Napoleon Bonaparte chỉ huy.

Được gọi về Rôma năm 1797, ông đứng về phe những người ôn hòa và ủng hộ những cuộc đàm phán dẫn đến hiệp ước Tolentino. Trong một bức thư gửi cho các cư dân của giáo phận ông yêu cầu họ:

"trong tình huống thay đổi chính phủ hiện nay (...) nên phục tùng thẩm quyền của vị tướng tổng Tư lệnh thắng trận của quân đội Pháp". Trong bài giảng lễ Giáng sinh năm 1797, ông cũng khẳng định: "Anh em rất thân mến, hình thức chính phủ dân chủ mà chúng ta thừa nhận hoàn toàn không đi ngược lại những châm ngôn mà tôi đã phát biểu trước đây, cũng không trái ngược với tin mừng; ngược lại nó đòi hỏi những nhân đức cao cả mà chúng ta có thể học được ở trường của Đức Giêsu Kitô (...) Vâng! Anh em thân mến, hãy là những Kitô hữu tốt và anh em sẽ là những người dân chủ tuyệt vời.

Giáo hoàng

Bầu cử

Khi Giáo hoàng Piô VI, tù nhân của những người cách mạng ở Pháp đã qua đời, 35 hồng y nhóm họp ở Venise. Ngày 1 tháng 12 năm 1799, hồng y Bênêđitô Chiaramonti tham dự cơ mật viện đã được nước Áo đón tiếp. Cơ mật viện này quy tụ các hồng y ở đảo Saint-Georges-Majeur, xứ Venise.

Ngay từ những lần bỏ phiếu đầu tiên, ông ủng hộ hồng y Bellisomi người được Pius VI che chở và là ứng viên của phe Braschi. Thế nhưng một thiểu số người Pháp và người Áo điều khiển, đã cản trợ việc ấy.

Phe Braschi lúc bấy giờ nhiều lần thay đổi ứng viên, nhưng không thành công. Sự ứng cử của hồng y người Savoie là Gerdil khiến đối tượng ứng cử giáo hoàng không thuộc về phía nước Áo.

Người thư ký trẻ của cơ mật viện, Đức ông Consalvi lúc bấy giờ đẩy Chiaramonti lên trước và ông này được bầu ngày 14 tháng 3 năm 1800, sau 104 ngày họp cơ mật viện.

Ông là một con người khá cởi mở đến với những tư tưởng mới, người từng tuyên bố thể chế dân chủ có thể hợp với phúc âm lên làm Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800. Ông lấy tên là Piô VII để tôn kính vị tiền nhiệm, có biệt danh là "giáo hoàng tử đạo".

Đăng quang giáo hoàng

Lập tức ông bổ nhiệm Consalvi làm quyền tổng trưởng ngoại giao. Ngày 21 tháng 3, ông đăng quang tại Saint-Georges-Majeur, vì nước Áo đã từ chối không cho ông đăng quang ở Vương cung thánh đường Saint-Marc.

Do đó, ông khước từ lời mời của hoàng đế Francois II và từ chối đi đến Viên. Ông vào Rôma ngày 3 tháng 7 năm 1800.

Khi vào Rôma, ông nhận thấy những người của Napoleon chiếm đóng kinh đô của ông. Các lãnh thổ Giáo hoàng không được ổn định do các cuộc chiến tranh cách mạng. Vì vậy, Pius VII yêu cầu hồng y Consalvi tổng trưởng ngoại giao bắt tay vào việc phục hưng.

Cải cách nhà nước

Piô VII tập hợp quanh mình những giám chức cải cách và bắt đầu bằng việc ân xá những người theo phe Pháp. Ông hình thành 4 hội đoàn đoàn hồng y để xem xét việc cải cách nhà nước.

Công việc của họ được hệ thống hóa trong sắc chỉ Post diuturnas ngày 30 tháng 10 năm 1800: các cơ quan của Pius VI được giữ nguyên nhưng cải cách. Do đó các viên chức giáo dân xâm nhập vào chính quyền Giáo hoàng, đặc biệt là trong việc thu hoạch hằng năm hoặc trong quân ngũ.

Một đoản sắc thiết lập sự tự do thương mại đối với những thực phẩm. Một cải cách tiền tệ, năm 1801 có chủ đích giới hạn sự lạm phát. Tiếp theo nó là một sự cải cách thuế, biến 32 thứ thuế thành một thuế thân cá nhân, thuế dativa.

Những cải cách này chạm phải sự phản đối của hồng y đoàn và các Giám mục. Mặc dù đã sáng lập một đội vệ binh quý tộc, giới quý tộc vẫn không hài lòng. Khi Consalvi phải rời nhiệm sở của mình 1806, thì chính sách táo bạo của ông cũng bị quyên lãng.

Về phụng vụ, năm 1801, ông đã ban một ân xá tòa thánh cho những lời ngợi khen đền tạ những sự xúc phạm lộng ngôn, được các tín hữu Công giáo đọc khi chầu phép lành Thánh thể để tha thứ những lời lăng nhục xúc phạm đến Thiên chúa.

Quan hệ với Bonaparte

Hiệp ước Côngcoócđa

Ký kết Concordat giữa Pháp và Tòa Thánh. (Trong hình, Hồng y Consalvi nhận phê chuẩn hiệp ước của Đức Giáo hoàng) Sau chiến thắng Marengo (5.6.1800), Napoleon Bonaparte ngỏ ý muốn điều đình với tòa thánh vì ông nhận thấy cần phải thông hảo với Roma để tái lập trật tự trong tư tưởng cũng như trong đời sống.

Một thỏa ước được Hồng y Tổng trưởng Ngoại giao Consalvi điều đình đã thu xếp, năm 1801, tình huống của Giáo hội ở Pháp. Hiệp ước được ký kết ngày 15 tháng 7 năm 1801 được mệnh danh là Côngcoócđa và ngày 15 tháng 4 năm 1802, bản sắc lệnh mà căn cứ vào đó để Napoleon thi hành và quy định tổ chức mới của Giáo hội Thiên chúa giáo ở Pháp.

Theo đó, Napoleon Bonaparte thừa nhận Thiên chúa giáo là "tôn giáo của đại đa số công dân Pháp, nhưng không phải là tôn giáo của quốc gia Pháp, cũng như thời trước cách mạng. Các giáo phận được phân chia lại ranh giới: 10 tòa tổng Giám mục và 50 tòa Giám mục. Chính phủ bổ nhiệm các Giám mục, nhưng quyền thừa nhận chiếu theo giáo luật thuộc tòa thánh. Các Giám mục và linh mục hứa trung thành với Chính phủ, và chính phủ phải lo cho có lương bổng xứng đáng.

Đáp lại, giáo hoàng cam kết không bao giờ yêu sách đòi lại đất đai và tài sản của Giáo hội đã bị tịch thu trong thời kỳ cách mạng, và người mua có quyền giữ mà không mắc vạ nữa. Về hàng Giám mục cũ, trước cũng như trong thời cách mạng. Tòa thánh buộc từ chức hết để thiết lập một hàng giáo phẩm mới.

"Chính phủ nước Cộng Hòa nhìn nhận đạo Công giáo tông truyền và Roma là tôn giáo chiếm đa số công dân. Giáo hoàng cũng nhìn nhận tôn giáo này đã sa sút và hiện vẫn chờ thiện ích lớn nhất, cũng như vinh dự lớn nhất, được tái lập việc phụng tự công giáo tại Pháp và tuyên xưng niềm tin riêng biệt mà các Tổng Tài nước Cộng Hòa đã làm. Vì thế, sau khi hiểu biết lẫn nhau, vì lợi ích tôn giáo cũng như gìn giữ bình yên trong nước, nay thỏa thuận như sau:

  1. Đạo công giáo tông truyền và Rôma sẽ được tự do sinh hoạt tại Pháp; việc phượng tự được công khai phù hợp với luật lệ an ninh mà chính phủ xét là cần thiết vì trật tự chung.
  2. Việc phân chia mới các ranh giới địa phận tại Pháp sẽ được Tòa Thánh cùng chính phủ thực hiện.
  3. Giáo hoàng tuyên bố cho những vị có chức Giám mục ở Pháp rằng Ông chờ đợi nơi họ với sự tín nhiệm vững chắc, mọi loại hy sinh kể cả tòa Giám mục, vì lợi ích hòa bình và hiệp nhất. (JC.Để đọc LSGH II, t.100) ".

Khi Bonaparte đưa bản Côngcoócđa cho quốc hội bỏ phiếu, ông kèm thêm 77 khoản về tổ chức. Theo đó, mọi văn kiện Tòa Thánh, và các sứ thần Tòa Thánh phải được phép của chính phủ mới được Phổ biến hay hoạt động tại Pháp, bản văn cũng buộc dạy trong chủng viện tuyên ngôn Pháp Giáo 1682.

Piô VII có phản đối nhưng vô ích. Dù sao, lễ phục sinh năm 1802, người ta đã mừng trọng thể việc tái lập lễ nghi Công giáo tại Vương cung thánh đường Paris. Cũng tháng đó, Chateaubriand, xuất bản cuốn "Tinh hoa Ki-tô giáo".

Tấn phong Bonaparte

Ngày 19 tháng 4 năm 1804, Nghị viện ra một nghị quyết. Theo nghị quyết ấy thì Napoleon Bonaparte được phong làm hoàng đế nước Pháp theo chế độ thế tập. Napoleon muốn Giáo hoàng đích thân đến dự lễ lên ngôi của ông như 1000 năm trước đây, Đức Leo III đã làm đối với Charlemagne. Nhưng nếu Charlemagne đến Roma để được Giáo hoàng tấn phong thì Napoleon muốn Giáo hoàng đích thân đến Pari.

Giáo hoàng Pio VII hoảng sợ và căm tức khi biết được ý muốn của Napoleon. Các cận thần của Giáo hoàng cố gắng an ủi Giáo hoàng bằng cách dẫn giải các thí dụ lịch sử xưa kia.

Thế nhưng Rome đang nằm trong vòng uy hiếp của quân đội Pháp đóng ở miền bắc và miền trung nước Ý. Giáo hoàng Pio VII đành phải làm theo yêu sách của Napoleon, nhưng Ông cũng cố đòi một số mảnh đất nhỏ ở miền bắc đất Thánh mà trước đây Napoleon đã chiếm đoạt. Nhưng yêu cầu của Giáo hoàng Pio VII, Hồng y Côngxenvi và hồng y đoàn đã không được Napoleon đáp ứng.

Khi mời Giáo hoàng, Napoleon đã hứa với các Hồng y là sẽ đi đón Giáo hoàng. Napoleon đã đi đón nhưng ông lại vận bộ đồ đi săn, có thợ săn, lính tiền trạm và chó vây quanh, và đã gặp Giáo hoàng ở rừng Phôngtennôblô ở vùng lân cận Pari vài bước, nơi Napoleon đang ở. Đoàn của Giáo hoàng dừng lại, Giáo hoàng được mời xuống xe và qua đường cái để lên xe của hoàng đế, nhưng Napoleon thì không xuống xe tiếp đón.

Ngày 2 tháng 12 năm 1804, Lễ đăng quang của Napoleon được cử hành ở nhà thờ Đức Bà Paris. Bất ngờ đối với Giáo hoàng và trái với thủ tục đã định trước. Khi Giáo hoàng Pio VII sắp đặt mũ miện lên đầu hoàng đế thì bất chợp Napoleon giằng lấy mũ triều thiên ở tay Giáo hoàng và tự đặt lên đầu mình.

Piô VII được tiếp tại khắp các miền đất Pháp. Hàng giáo phẩm Pháp không tiếc lời ca tụng Napoléon: Đấng Chúa xức dầu, Đavít mới, Constantin, Charlemagne... và dành một chỗ đặc biệt nói về bổn phận đối với hoàng đế trong sách giáo lý 1806.

Căng thẳng giữa giáo hoàng và hoàng đế

trái|Bảo tàng Chiaramonti. Bắt giữ Giáo hoàng Piô VII vào đêm 5 rạng sáng ngày 6 tháng 7 năm 1809.

Nhưng năm 1806, giai đoạn căng thẳng giữa Giáo hoàng - hoàng đế bắt đầu. Napoléon yêu cầu Giáo hoàng ngưng buôn bán với Anh quốc, nhưng Pio VII từ chối. Thế là tháng 2-1808 quân Pháp chiếm đóng Roma; tháng 5-1809 Lãnh địa Giáo hoàng bị sáp nhập vào đế quốc Pháp. Pio VII phản ứng bằng bản vạ tuyệt thông những kẻ xâm lăng... Tháng 7, ông bị bắt đưa về quản chế ở Savonna (gần Gênes) cho đến năm 1812. Dù bị cản trở, bản vạ tuyệt thông vẫn được Phổ biến tại Pháp.

Tháng 12 năm 1809, Napoleon đòi ly dị Joséphine (không có con trai) để cưới công chúa nước Áo Marie-Louise. Mặc dù các Giám mục Paris đã cho phép hoàng đế ly dị Joséphine nhưng Pio VII vẫn tuyên bố hôn nhân này không thành (1810). Quay trở lại Rôma của giáo hoàng Piô VII Thêm vào đó, tình hình căng thẳng hơn do việc Giáo hoàng không thừa nhận các Giám mục mới được Napoléon bổ nhiệm. Hoàng đế triệu tập Công đồng toàn quốc tại Paris năm 1811. Các Giám mục Pháp xác định mình trung thành với Tòa Thánh, nhưng lại không muốn làm phật ý hoàng đế, nên chấp nhận đi thuyết phục Pio VII nhưng vị Giáo hoàng vẫn không chịu nhượng bộ.

Tháng 6-1812, Napoléon áp giải Giáo hoàng về Fontainnebleau, một lần nữa ông bắt ép Giáo hoàng ký nhận. Tại đây, ngày 25-1-1813, bị cô lập, Giáo hoàng đã yếu đuối ký một thỏa ước mới (1813) chấp nhận chỉ bổ nhiệm một phần ba Hồng y đoàn, các ông hoàng công giáo bổ nhiệm các vị hồng y khác và tôn trọng Bốn điều khoản của năm 1692.

Sau đó Giáo hoàng rút lời, ông vội ra một tông thư khác (23-3) hủy bỏ bản văn trên và tiếp tục chịu làm tù nhân.

Năm sau, Napoléon bị thua liên minh các nước Âu Châu, Piô VII trở về Rôma ngày 24-5-1814 và thiếp lập lại Dòng Tên ngày 7.8.1814, để minh chứng sự độc lập của mình.Trong tông chiếu Sillicitudo-omnium Ecclesiarum ông nói: "Những tay lái đầy kinh nghiệm và hùng tráng của con thuyền Phê-rô này, sẽ có một sứ mạng đặc biệt trong thế kỳ XIX".

Quan hệ với các nước

Tượng Piô VII của nhà điêu khắc [[Bertel Thorvaldsen]] Sau khi Napoleon bị lật đổ và lưu đày ở Elba, Giáo hội Công giáo Pháp được phục hồi và quyền bính của Giáo hoàng được tái xác nhận. Lúc đó, Piô VII ký kết nhiều thỏa ước, được điều đình bởi Consalvi, với nhiều quyền lực Âu châu, cả Công giáo lẫn Tin lành và cả với hoàng đế nước Nga.

Năm 1817, một hiệp ước được ký kết giữa Tòa thánh và Bavaria theo đó nhà vua bổ nhiệm Giám mục, Giáo hoàng thừa nhận theo giao luật.

Nhiều quốc gia như Wurtemberg, Hesse, Nassau thuộc các ông hoàng Tin lành cũng muốn điều đình với Tòa thánh nhưng họ đặt quá nhiều điều kiện nên bị bác bỏ (1818).

Ngày 16.7.1821, sau 5 năm điều đình với đại sứ Phổ tại Roma, Giáo hoàng Pio VII ban hành tông chiếu De saltute animarum giải quyết những vấn đề bang giao giữa Tòa thánh và Phổ. Tại hội nghị ở Vienne, Giáo hoàng Pio VII và người quốc vụ khanh khôn khéo của mình là Consalvi đã đòi hỏi được, tuy vất vả, sự phục hồi lại nhà nước Giáo hoàng, coi như là sự đảm bảo chắc chắn cho sự độc lập của Tòa thánh.

Ngày 6 tháng 10 năm 1822, sắc chỉ của Giáo hoàng phục hưng 30 giáo phận trong nước Pháp. Chính sau những cuộc mặc cả dài với chính phủ của Louis XVIII, Pius VII mới chấp nhận phục hưng 30 trong số các giáo phận đã bị hủy bỏ khi có hiến chế dân sự về hàng giáo sĩ trong thời cách mạng Pháp.

Piô VII từ trần tại Rôma ngày 20 tháng 8 năm 1823.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Piô VII** là vị giáo hoàng thứ 251 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 14 tháng 3 năm 1800 và ở
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
**Lãnh địa Giáo hoàng** hay **Nhà nước Giáo hoàng** (tiếng Ý: _Stato Pontificio_; tiếng Anh: _Papal States_), tên gọi chính thức là **Nhà nước Giáo hội** hay **Quốc gia Giáo hội** (tiếng Ý: _Stato della
**Giáo hoàng** (, ) là vị giám mục của Giáo phận Rôma, lãnh đạo tinh thần của Giáo hội Công giáo toàn thế giới. Theo quan điểm của Giáo hội Công giáo, giáo hoàng là
**Lêô XII** (Latinh: **Leo XII**) là vị giáo hoàng thứ 252 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1860 thì ông đắc cử Giáo hoàng vào ngày 28 tháng 9 năm
**Giáo hoàng Gioan Phaolô I** (Latinh: _Ioannes Paulus PP. I_, tiếng Ý: _Giovanni Paolo I_, tên khai sinh là **Albino Luciani**, 17 tháng 10 năm 1912 – 28 tháng 9 năm 1978) là vị Giáo
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
**Năm của ba giáo hoàng** là cách gọi một năm mà trong đó Giáo hội Công giáo phải bầu hai giáo hoàng mới – tức là có ba người khác nhau làm giáo hoàng trong
**Giáo hoàng Lêôn I** hay **Lêôn Cả** (Latinh: _Leo I_) là giáo hoàng thứ 45 của Giáo hội Công giáo Rôma, kế vị giáo hoàng Xíttô III. Ông là một trong những vị Giáo hoàng
**Grêgôriô XIII** (, ) là vị giáo hoàng thứ 226 của Giáo hội Công giáo Rôma. Theo niên giám Tòa Thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1572 và ở ngôi Giáo
**Phao lô II** (Latinh: **Paulus II**) là vị Giáo hoàng thứ 211 của giáo hội công giáo. Theo niên giám tòa thánh năm 1806 thì ông đắc cử Giáo hoàng năm 1464 và ở ngôi
**Tổng giáo phận Jakarta** (; ) là một tổng giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma, quản lí vùng Java ở Indonesia. Nhà thờ chính tòa của tổng giáo
**Giáo hội Công giáo**, gọi đầy đủ là **Giáo hội Công giáo Rôma**, là giáo hội Kitô giáo được hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục giáo phận Rôma, hiện tại là Giáo hoàng
**Công giáo tại Việt Nam** là một bộ phận của Giáo hội Công giáo, dưới sự lãnh đạo tinh thần của các giám mục tại Việt Nam, hiệp thông với giáo hoàng. Với số tỉ
Giáo hội Công giáo dành một sự tôn kính đặc biệt cho **Maria** (mẹ của Chúa Giêsu). Điều này được dựa trên những quy điển của Kinh Thánh về màu nhiệm nhập thể của Con
**Tổng giáo phận Huế** (tiếng Latin: _Archidioecesis Hueensis_) là một tổng giáo phận của Giáo hội Công giáo Rôma ở miền trung Việt Nam. Tính đến năm 2019, Tổng Giáo phận Huế có diện tích
**Biên niên sử Giáo hội Công giáo Rôma** này ghi lại nhiều sự kiện xảy ra trong lịch sử Giáo hội Công giáo Rôma trải dài gần hai nghìn năm, song song cùng lịch sử
**Tổng giáo phận Hà Nội** (tiếng Latinh: _Archidioecesis Hanoiensis_) là một tổng giáo phận Công giáo ở Việt Nam, quản lý giáo dân phần lớn trung tâm Hà Nội, một phần các tỉnh Ninh Bình,
phải|nhỏ|Bản đồ các giáo phận Công giáo Việt Nam **Giáo hội Công giáo tại Việt Nam** hiện tại được tổ chức theo địa giới gồm có 3 giáo tỉnh là Hà Nội, Huế và Sài
**Giáo phận Hải Phòng** (tiếng Latin: _Dioecesis Haiphongensis_) là một giáo phận Công giáo Rôma ở Việt Nam. Đây là một trong những vùng đất mà những nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân đến
**Ủy ban Đoàn kết Công giáo Việt Nam** là một tổ chức xã hội tại Việt Nam, là một tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy thành viên của Ủy
**Napoléon Bonaparte** (tên khai sinh là **Napoleone Buonaparte**; 15 tháng 8 năm 1769 – 5 tháng 5 năm 1821), sau này được biết đến với tôn hiệu **Napoléon I**, là một chỉ huy quân sự
**Alfonso Maria de' Liguori** (tên Việt phiên âm: **An Phong** hoặc **Anphonsô**, 1696-1787) là người sáng lập ra Dòng Chúa Cứu Thế, Giám mục Sant'Agata de' Goti, là một trong những nhà thần học luân
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
thumb|Một vệ binh Quý tộc trong bộ đồng phục **Vệ binh Quý tộc** (tiếng Ý: _Guardia Nobile_) là một trong những đơn vị cận vệ phục vụ Giáo hoàng, và là một phần của quân
thumb|Scala Sancta **** (, ) là cầu thang cẩm thạch trắng 28 bậc thánh tích Công giáo La Mã nằm trong một tòa nhà trên tài sản ngoài ranh giới của Tòa thánh trong Rome,
**Joseph-Napoleon Bonaparte** (7 tháng 1 năm 1768 – 28 tháng 7 năm 1844) là một luật sư, chính trị gia dưới thời Đệ Nhất Cộng hòa Pháp, và là một quý tộc, nhà cai trị
**Nhà Bonaparte** (ban đầu được viết là "Buonaparte") là một cựu hoàng gia và vương triều châu Âu có nguồn gốc từ Genova. Nó được thành lập vào năm 1804 bởi Hoàng đế Napoleon, người
**Lucien Bonaparte, Hoàng tử Pháp, Đệ nhất Thân vương xứ Canino và Musignano** (21 tháng Năm 1775 – 29 tháng 7 năm 1840), tên khai sinh **Luciano Buonaparte**, là một trong ba đứa con trai
**Maria Anna của Sardegna** (tên đầy đủ: _Maria Anna Ricciarda Carolina Margherita Pia_; 19 tháng 9 năm 1803 – 4 tháng 5 năm 1884) là người con thứ sáu và con gái thứ năm của
**Đệ Nhất đế chế**, hay **chế độ Napoleon**, tên chính thức **Cộng hòa Pháp**, sau đó là **Đế quốc Pháp** (; ) là một chế độ chính trị trong lịch sử nước Pháp, do Napoléon
:link= _Bài này viết về thành phố Roma. "Rome" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem La Mã (định hướng)._ **Roma** (tiếng Latinh và tiếng Ý: _Roma_
**Carlo Alberto I của Sardegna** (tiếng Anh: _Charles Albert_; 2 tháng 10 năm 1798 - 28 tháng 7 năm 1849) là Vua của Sardinia từ ngày 27 tháng 4 năm 1831 cho đến khi tuyên
**Ngài Thomas More** (tiếng Latinh: _Thomas Morus_; 7 tháng 2 năm 1478 – 6 tháng 7 năm 1535), hay còn gọi **Thánh Tôma Môrô** trong Công giáo, là một luật sư, triết gia xã hội,
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:John_Paul_II_funeral_long_shot.jpg|nhỏ|288x288px|**Các hồng y mặc [[Phẩm phục Công giáo|phẩm phục đỏ trong lễ tang Giáo hoàng Gioan Phaolô II**]] **Hồng y đoàn**, chính thức là **Hồng y thánh đoàn**, là cơ quan của tất cả các
**Wilhelm I** (tiếng Đức: _Friedrich Wilhelm Karl_; 27 tháng 9 năm 1781 – 25 tháng 6 năm 1864) là Vua của Württemberg từ ngày 30 tháng 10 năm 1816 cho đến khi ông qua đời
**María Isabel của Tây Ban Nha, hay María Isabel de Borbón y Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Isabel de España_; tiếng Ý: _Maria Isabella di Spagna_; tiếng Pháp: _Marie-Isabelle d'Espagne_; tiếng Đức: _Maria Isabella
**Elizabeth I của Anh** (tiếng Anh: _Elizabeth I of England;_ tiếng Pháp: _Élisabeth Ire d'Angleterre;_ tiếng Tây Ban Nha: _Isabel I de Inglaterra;_ 7 tháng 9 năm 153324 tháng 3 năm 1603) là Nữ vương
**Vương cung thánh đường Thánh Phanxicô thành Assisi** (tiếng Ý: _Basilica Papale di San Francesco_, Latinh: _Basilica Sancti Francisci Assisiensis_) là nhà thờ mẹ của Dòng Anh Em Hèn Mọn thuộc Giáo hội Công giáo
**Jérôme-Napoléon Bonaparte** (Tên khai sinh: Girolamo Buonaparte; 15 tháng 11 năm 1784 - 24 tháng 6 năm 1860) là em trai út của Hoàng đế Napoleon I, được đưa lên làm vua của Vương quốc
**Elizabeth Patterson Bonaparte** (6 tháng 2 năm 1785 – 4 tháng 4 năm 1879) là một nhà hoạt động xã hội người Mỹ. Bà là con gái của William Patterson, một thương gia giàu có
**Maria Teresa Ferdinanda của Sardegna** (tên đầy đủ: _Maria Teresa Ferdinanda Felicitas Gaetana Pia_; 19 tháng 9 năm 1803 – 16 tháng 7 năm 1879) là con gái của Vittorio Emanuele I của Sardegna và
**Marie Clotilde của Pháp** (23 tháng 9 năm 1759 – 7 tháng 3 năm 1802), được gọi là **Clotilde** ở Ý, là Vương hậu Sardegna thông qua cuộc hôn nhân với Carlo Emanuele IV của
thumb|right|
Cardinal Giuseppe Caspar Mezzofanti
**Giuseppe Caspar Mezzofanti** (19 tháng 9 năm 1774 - 15 tháng ba 1849) là một hồng y và nhà ngôn ngữ học người Ý nổi tiếng biết nhiều ngôn ngữ. Sinh
Trong ẩm thực Ý, **ragù** ( từ ) là một loại nước xốt được làm từ thịt thường được phục vụ với pasta. Một xã hội của ẩm thực Ý, , ghi lại một số
**Victoria Eugenie Julia Ena của Battenberg** (tiếng Anh: _Victoria Eugenie of Battenberg_; tiếng Đức: _Victoria Eugénie von Battenberg_; tiếng Ba Lan: _Wiktoria Eugenia Battenberg_; tiếng Tây Ban Nha: _Victoria Eugenia de Battenberg_; tiếng Pháp: _Victoire
thumb|right|Thành phố sơ khởi được hình thành từ [[Bảy ngọn đồi La Mã bao quanh bởi tường thành Servius (màu xanh) được xây dựng vào đầy thế kỷ 4 TCN. Tường thành Aurelianus (màu đỏ)
**Văn khố Tông toà Vatican** (chữ Latin: _Archivum Apostolicum Vaticanum_; tiếng Ý: _Archivio Apostolico Vaticano_) là kho trong Thành Vatican lưu trữ tất cả giấy tờ được Toà Thánh ban bố, cũng chứa các công
::link= _"Florence" được chuyển hướng đến đây. Với những mục đích tìm kiếm khác, vui lòng xem Florence (định hướng)._ **Firenze** ( hay còn phổ biến với tên gọi **Florence** trong tiếng Anh và tiếng
**Phêrô Nguyễn Huy Mai** (1913–1990) là một giám mục của Giáo hội Công giáo Rôma người Việt Nam. Ông từng đảm trách vai trò Giám mục tiên khởi của Giáo phận Ban Mê Thuột, cai