✨Fyodor I của Nga

Fyodor I của Nga

Fyodor I Ioannovich hay Fyodor Ivannovich, Tiếng Nga: Фёдор Иванович. Các tư liệu Tiếng Anh gọi ông là Theodore I (31 tháng 5 năm 1557 – 16/17 tháng 1 năm 1598) là Nga hoàng cuối cùng của nhà Rurik nước Nga (1584-1598).

Ông là con của Ivan Bạo chúa và với bà Anastasia Romanova. Ông sinh ra ở Moskva và đăng quang vào ngày 31 tháng 5, 1584 ở Moskva, khi còn là một thái tử trẻ và bất tài. Quốc vương Fyodor I băng hà vào năm 1598 mà không để lại một đứa con (một đứa con gái duy nhất của ông đã chết vào năm 1594). Cuối cùng, anh rể của quốc vương Fyodor I là Boris Godunov lên nối ngôi.

Trong các tài liệu của Nga, Fyodor I đôi khi có biệt danh là "phước lành" (tiếng Nga: Блаженный). Ông cũng được xem là Đại Giáo trưởng của Nhà thờ Chính thống, với ngày lễ của mình vào ngày 7 tháng 1 hàng năm.

Tiểu sử

Fyodor sinh ra ở Moskwa, con trai của Ivan IV Hung đế và người vợ đầu tiên của ông, Anastasia Romanovna. Mặc dù ông là con thứ sáu và là con út của mẹ, nhưng ông chỉ lớn lên cùng với một anh trai Ivan, bởi vì tất cả anh chị khác của Fyodor đã chết trước khi ông được một tuổi.

Sau khi mẹ chết khi mới ba tuổi, Fyodor sống trong sự ghẻ lạnh của cha mình và hay bị hắt hủi. Fyodor chơi chung với người anh Ivan và một người em trai khác là Dmitriy của Uglich để xóa tan sự khắc nghiệt của cha mình. Thế nhưng, những điều nhỏ nhoi đó của ông không đủ xóa tan bầu không khí u ám của triều đình Nga lúc đó. Sống trong sự khắc nghiệt, ghẻ lạnh giữa các thành viên trong gia đình, Fyodor trở nên ốm yếu về sức khoẻ và tính tình nóng nảy. Ông thường đi ngắm cảnh thiên nhiên, nhiều khi đến thăm các nhà thờ và còn tự mình đánh chuông cho nhà thờ. Vì lý do này, ông được biết đến với tên là "Fyodor the Bellringer". Ngoài ra, Fyodor cũng được biết đến là người đàn ông tốt bụng và giản dị, nhưng lại ít quan tâm đến chính trị. Theo một số báo cáo, Fyodor có thể bị vấn đề về trí tuệ hoặc học tập khuyết tật, nhưng đây có thể là báo cáo sai sự thật về bản chất và địa vị của ông.

Năm 1580, Fyodor kết hôn với Irina Feodorovna Godunova (1557 - 1603), em gái của bộ trưởng Boris Godunov. Hai vợ chồng sống không hạnh phúc, ít gần gũi nhau. Về sau, họ ngày càng yêu thương nhau và đã sinh ra một người con gái, tên là Feodosia. Tuy nhiên, niềm vui đó tồn tại không bao lâu thì Feodosia mất khi mới 2 tuổi. Không có đứa trẻ nào khác trong cuộc hôn nhân này.

Tháng 11/1581, anh trai ông là Thái tử Ivan bị cha là Sa hoàng Ivan IV giết chết, Fyodor trở thành người kế thừa ngai vàng duy nhất của Ivan IV. Một năm sau, hoàng hậu khác của Ivan IV sinh ra hoàng tử Dmitriy của Uglich, là em trai duy nhất của Fyodor còn sống.

Lên ngôi

Ivan qua đời vào tháng 3/1584 và Fyodor lên kế vị ngai vàng. Ngày 31/5/1584, ông được Giáo hội Chính thống giáo chính thức trao vương miện tại Nhà thờ Assumption ở Moskwa với hiệu Fyodor I. Vì bất tài và thể chất yếu kém nên ông đã giao hết quyền quản lý đất nước cho anh vợ là Boris Godunov.

Không giống như cha ông, Fyodor không nhiệt tình trong việc duy trì quyền kinh doanh độc quyền với Vương quốc Anh. Ông tuyên bố mở cửa các cảng cho các thương nhân nhiều nước đến đây buôn bán, phá bỏ sự độc quyền thương mại nước Nga của Anh. Đại sứ Anh Jerome Bowes dâng thư xin Sa hoàng từ bỏ tuyên bố trên, nhưng vô hiệu. Đại sứ Anh rút về nước, Nữ hoàng Elizabeth I của Anh đã gửi một đại sứ mới, Giles Fletcher sang Nga vào năm 1588 để thuyết phục viên nhiếp chính Boris Godunov đề nghị Sa hoàng Fyodor I đàm phán với Anh để tháo dỡ tuyên bố trên, nhưng thất bại. Không nản chí, Nữ hoàng Anh viết nhiều bức thư bí mật gửi Sa hoàng, thậm chí còn kêu gọi vừa Nga thiết lập liên minh Nga - Anh... nhưng các đề nghị trên đều bị Fyodor I từ chối thẳng thừng.

Tháng Giêng năm 1598, Fyodor I mất mà không có con hợp pháp nối dõi. Hội đồng lãnh chúa họp bàn và bầu Boris Godunov làm Sa hoàng kế tiếp.

👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Fyodor I Ioannovich** hay Fyodor Ivannovich, Tiếng Nga: Фёдор Иванович. Các tư liệu Tiếng Anh gọi ông là Theodore I (31 tháng 5 năm 1557 – 16/17 tháng 1 năm 1598) là Nga hoàng cuối
**Yekaterina I Alekseyevna** (tiếng Nga: Екатери́на I Алексе́евна; 15 tháng 4 năm 1684 – 17 tháng 5 năm 1727), hay còn gọi với tên gọi **Yekaterina I**, là Nữ hoàng đầu tiên của Đế quốc
**Pavel I của Nga**, còn được chép là **Paul I** (; _Pavel Petrovich_) ( – ) là Hoàng đế Nga từ năm 1796 đến năm 1801. Trong triều đại mình, Pavel đã bãi bỏ nhiều
**Mikhail Fyodorovich** (, tiếng Slav Đông cổ: _Міхаи́лъ Ѳео́доровичь_; 22 tháng 7 [12 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1596 – 23 tháng 7 [13 tháng 7 theo lịch cũ] năm 1645), còn được gọi
**Pyotr I** (), có sách viết theo tiếng Anh là **Peter I** hay tiếng Pháp là **Pierre I** (sinh ngày: 10 tháng 6 năm 1672 tại Moskva – mất ngày: 8 tháng 2 năm 1725
**Fyodor (Theodore) III Alexeyevich** của Nga (tiếng Nga: Фёдор III Алексеевич) (9 tháng 6 năm 1661 - 7 tháng 5 năm 1682) là Sa hoàng thứ ba của vương triều Romanov của nước Nga từ
**Ivan V Alekseyevich** (tiếng Nga: Иван V Алексеевич, 6 tháng 9 [27 tháng 8 theo lịch cũ] năm 1666 – 8 tháng 2 [29 tháng Giêng theo lịch cũ] năm 1696) là Sa hoàng của
**Đại vương công Konstantin Nikolayevich của Nga** (21 tháng 9 năm 1827 – 25 tháng 1 năm 1892) là người con thứ 5 và là con trai thứ của Sa hoàng Nikolai I của Nga
**Alexander II** (; 29 tháng 4 năm 181813 tháng 3 năm 1881)) là Hoàng đế Nga, Vua của Ba Lan và Đại vương công Phần Lan từ ngày 2 tháng 3 năm 1855 cho đến khi
**Yekaterina II Đại đế** (tiếng Nga: Екатерина II Великая; sinh ngày 2 tháng 5 năm 1729 – mất ngày 6 hoặc 17 tháng 11 năm 1796), đôi khi được viết là **Ekaterina II**, hay **Yekaterina
**Xung đột biên giới Nga – Thanh (1652 - 1689)** là một loạt các vụ đụng độ vũ trang giữa nhà Thanh, với sự trợ giúp từ nhà Triều Tiên, và Sa quốc Nga, tranh
**Sa quốc Nga** ( hay **Nước Nga Sa hoàng**, ) hay nó có một tên gọi khác là **Sa quốc Muscovy** là giai đoạn trung ương tập quyền hóa trong lịch sử Nga, bắt đầu
**Tỉnh Kiev** (chính tả cũ ; ) là một đơn vị hành chính của Đế quốc Nga từ 1796 đến 1919 và của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Ukraina từ 1919 đến
**Chiến tranh Nga-Ba Tư** giai đoạn 1722-1723, được sử sách nước Nga chép là **Chiến dịch Ba Tư của vua Pyotr Đại đế**, là một cuộc chiến tranh giữa Nga và Ba Tư (Iran), một
Đây là danh sách tất cả các vị vua trị vì trong lịch sử nước Nga, bao gồm các danh hiệu Đại vương công Novgorod, Đại vương công Kiev, Đại vương công Vladimir, Đại vương
**Văn học Nga** là thuật ngữ chỉ nền văn học của nước Nga và của người Nga di cư ra nước ngoài, đồng thời cũng chỉ nền văn học được viết bằng tiếng Nga. Gốc
Fyodor Fyodorovich Ushakov Thánh **Fyodor Fyodorovich Ushakov** (tiếng Nga: Фёдор Фёдорович Ушако́в, IPA: [ʊʂɐˈkof]; 24 tháng 2 (lịch cũ: 13 tháng 2) 1745 - 14 tháng 10 (lịch cũ: 2 tháng 10) 1817) là chỉ
nhỏ|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily trên Quảng trường Đỏ, ở Moskva|thế=]] **Văn hóa Nga** có truyền thống lâu đời về nhiều mặt của nghệ thuật, đặc biệt khi nói đến văn học, múa dân
**Boris Fyodorovich Godunov** (; Tiếng Nga: Бори́с Фёдорович Годуно́в, ); (khoảng 1551 – 23 tháng 4 năm 1605) (lịch O.S. 13 tháng 4 năm 1605) là vua của nước Nga
Chân dung Fyodor Matveyevich Apraksin. **Fyodor Matveyevich Apraksin** (tiếng Nga: Фёдор Матвеевич Апраксин), dưới triều Pyotr Đại đế là Đại tướng, Đô đốc Hải quân người Nga đầu tiên, Tổng đốc Azov, Hiệp sĩ Huân
**Fyodor Sologub** (tiếng Nga: Фёдор Сологуб, tên khai sinh Fyodor Kuzmich Teternikov, 1 tháng 3 năm 1863 – 5 tháng 12 năm 1927) – nhà thơ, nhà văn Nga, một đại diện tiêu biểu của
Lịch sử của nước Nga, bắt đầu từ việc người Slav phương Đông tái định cư ở Đồng bằng Đông Âu vào thế kỷ thứ 6-7, những người sau đó được chia thành người Nga,
Quân phục Thống chế Nga ([[1793)]] nhỏ|446x446px|Thống chế [[Aleksandr Vasilyevich Suvorov|A.B. Suvorov.]] **Thống chế** (, đôi khi được dịch là **Nguyên soái**) là cấp bậc quân sự cao nhất trong quân đội Nga từ đầu
**Tiền đề của Cách mạng Tháng Hai năm 1917 ở Nga** - một tập hợp phức tạp các biến chuyển kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa trong và ngoài nước có mối
**Fyodor Mikhailovich Dostoyevsky**(tiếng Nga: Фёдор Миха́йлович Достое́вский ;; 11 tháng 11 (lịch cũ: 30 tháng 10) năm 1821 – 9 tháng 2 (lịch cũ: 28 tháng 1) năm 1881), hay còn được gọi là Dostoevsky,
**Đại chiến Bắc Âu** là tên các sử gia gọi cuộc chiến từ năm 1700 đến năm 1721 giữa Thụy Điển với liên minh của Nga, Đan Mạch, Sachsen (Đức) và Ba Lan; từ năm
**Bản chúc thư của Pyotr Đại đế**, hay **Pyotr Đại đế. Di chúc** (tiếng Nga: _Пётр Первый. Завещание_) là một bộ phim tâm lý - lịch sử do Vladimir Bortko đạo diễn, xuất phẩm lần
**Fyodor Fedotovich Kuznetsov** (; 1904-1979) là một Thượng tướng Liên Xô, người đứng đầu tình báo quân sự Liên Xô trong Thế chiến thứ hai. ## Tiểu sử Ông sinh ngày 6 tháng 9 (tức
**Trận Narva** (30 tháng 11 năm 1700, theo Lịch Gregorius) là một trận đánh quan trọng của Đại chiến Bắc Âu (1700 - 1721) giữa quân đội Đế quốc Thuỵ Điển dẫn dắt bởi vị
Bá tước **Berend Gregor Ferdinand von Tiesenhausen** (tiếng Nga:_Fiodor Ivanovitch Tiensenhausen_; 1 tháng 6 năm 1782, Reval – 2 tháng 12 năm 1805, Austerlitz) là một nhà quý tộc và là một tướng lĩnh gốc
thế=Saint Basil's Cathedral, with multicolored onion-shaped domes against a blue sky|nhỏ|354x354px|[[Nhà thờ chính tòa Thánh Vasily|Nhà thờ chính tòa Saint Basil (1482–95) là một ví dụ điển hình của kiến trúc Moskva Nga.]] **Kiến trúc
**Hội nghị Đại biểu Toàn quốc lần thứ nhất Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga** (RSDLP) được tổ chức tại Tampere (Tammerfors), Đại Công quốc Phần Lan, vào tháng 12 năm 1905. Được
**Tổng Tư lệnh Hải quân Nga** là quan chức đứng đầu của lực lượng Hải quân Nga. Vị trí này được thành lập vào năm 1696, trước cả khi Ban Hải quân thành lập. Chức
nhỏ|phải|Người Nhật và chùa Phật giáo ở Iturup (Trạch Tróc) (trước năm 1939) **Quần đảo Kuril** theo cách gọi của Nga (tiếng Nga: Курильские острова (; , hay **quần đảo Chishima** theo cách gọi của
phải|nhỏ|Sa hoàng [[Nikolai I của Nga|Nikolai I (trị vì 1825–1855) đã biến chủ thuyết **Dân tộc chính thống** thành tư tưởng đế quốc chủ đạo về triều đại của mình]] **Chính thống giáo, Chuyên chế
**Tyumen** (tiếng Nga: Тюмень) là thành phố đầu tiên của người Nga tại vùng Xibia (1586) là một thành phố ở Vùng liên bang Ural của Nga, nằm trên sông Tura cách 2.144 km (1.332 dặm)
**Nghệ sĩ nhân dân Liên bang Nga** (, chuyển tự Latinh: _Narodnyy artist Rossiyskoy Federatsii_), đôi khi còn được dịch là **Nghệ sĩ quốc gia Liên bang Nga**, là danh hiệu cao nhất được trao
**_Nadezhda_** (còn gọi là **_Nadeshda_** hoặc **_Nadeshada_**) là một con tàu được trang bị ba cột buồm, từng là tàu buôn của Anh mang tên _Leander_, ra mắt vào năm 1799. Một toán cướp biển
**Tổng tham mưu trưởng** () là lãnh đạo đứng đầu Bộ Tổng tham mưu Lực lượng Vũ trang Liên bang Nga. Tổng tham mưu trưởng được bổ nhiệm bởi Tổng thống Nga, người giữ vai
**Thượng phụ Nikon** (tiếng Nga: Никон, tiếng Nga cổ: Нїконъ; tên khai sinh: **Nikita Minin (Minov)** _Ники́та Ми́нин (Минов)_; 7 tháng 5 năm 1605 – 17 tháng 8 năm 1681) là Thượng phụ Moskva và
**Georgy Konstantinovich Zhukov** (; , 1 tháng 12 năm 1896 – 18 tháng 6 năm 1974) là một sĩ quan cấp tướng và là Nguyên soái Liên Xô. Ông cũng từng là Tổng Tham mưu
nhỏ|phải|Franz Lefort **Franz Lefort** (tiếng Nga: _Франц Яковлевич Лефорт_; 23 tháng 12 năm 1655 – 2 tháng 3 năm 1699) là một đô đốc của Nga dưới thời của Pyotr I. ## Gốc gác Franz Lefort
**Igor Fyodorovich Stravinsky** (tiếng Nga: Игорь Фёдорович Стравинский _Igor Fjodorovič Stravinski_; 17 tháng 6 năm 1882 – 6 tháng 4 năm 1971) là một nhà soạn nhạc người Nga, sau này đổi quốc tịch sang
**Hạm đội Biển Đen** () là một đơn vị thuộc Hải quân Nga hoạt động ở Biển Đen và Địa Trung Hải kể từ thế kỷ 18. Hạm đội này đóng ở nhiều bến cảng
nhỏ|Patrick Gordon **Patrick Gordon** (1635–1699) là một tướng nổi tiếng của Quân đội Hoàng gia Nga và người bạn thân với Pyotr Đại đế. ## Gốc gác Patrick Gordon thuộc một gia đình tiếng tăm
nhỏ|360x360px|[[Nikolai II của Nga|Nikolai II, Sa hoàng cuối cùng của nước Nga]] **Sa hoàng** (tiếng Anh: _Tsar_; hay ; Tiếng Slav Giáo hội cổ: ц︢рь), còn gọi là **Nga hoàng**, là tước vị chính thức
**Cộng hòa Nhân dân Ukraina** là một nhà nước tồn tại ngắn ngủi tại Đông Âu. Hội đồng Trung ương Ukraina được bầu ra vào tháng 3 năm 1917 do kết quả từ Cách mạng
**Aleksandr Mikhailovich** (tiếng Nga: Александр Михайлович Тверской, 7 tháng 10 năm 1301 đến ngày 29 tháng 10 năm 1339) là Đại công của Tver và Vladimir-Suzdal trong những năm 1326 - 1327 và 1338 -
**_Chiến tranh và hòa bình_** (tiếng Nga: _Война и мир_) là một tiểu thuyết của Lev Nikolayevich Tolstoy, được xuất bản rải rác trong giai đoạn 1865–1869. Tác phẩm được xem là thành tựu văn
**Aleksandr Sergeyevich Pushkin** (tiếng Nga: , 6 tháng 6 năm 1799 – 10 tháng 2 năm 1837) là một nhà thơ, tiểu thuyết gia kiêm nhà soạn kịch người Nga. Được đánh giá là một