Điều ước bất bình đẳng Nhật–Triều 1876, còn được gọi là Điều quy Tu hảo Nhật-Triều theo tiếng Nhật hoặc Điều ước đảo Ganghwa theo tiếng Triều Tiên, được thực hiện giữa đại diện ngoại giao của các bên: Đế quốc Nhật Bản và nhà Triều Tiên vào năm 1876, sau khi các cuộc đàm phán kết thúc vào ngày 26 tháng 2 năm 1876. Trước đó, Hải quân Nhật Bản đã sử dụng pháo hạm để buộc Triều Tiên phải mở cửa các hải cảng của mình cho thương nhân người Nhật vào buôn bán.
Bối cảnh
Sau Cách mạng công nghiệp trong thế kỷ 18, các quốc gia châu Âu bắt đầu thuộc địa hóa nhiều lãnh thổ tại châu Phi và châu Á - theo học thuyết chính trị được gọi là Chủ nghĩa đế quốc. Khu vực Đông Á cũng bị các thế lực ngoại quốc xâm chiếm, bắt đầu từ Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất (18391842) và Chiến tranh nha phiến lần thứ hai (18561860) chống lại nhà Thanh, Đại Thanh suy sụp, trở thành một lãnh thổ bán thuộc địa. Trong khi đó, Hải đoàn Á châu của Hải quân Hoa Kỳ dưới quyền Matthew C. Perry cũng buộc Nhật Bản phải mở cửa các hải cảng của mình cho thế giới phương Tây vào năm 1854.
Bị bẽ mặt trước các điều ước bất bình đẳng và viễn cảnh mất độc lập cùng sự toàn vẹn lãnh thổ trước các cường quốc phương Tây, Nhật Bản lao vào Minh Trị Duy tân - một cuộc cách mạng thành công đã biến đổi nhanh chóng đảo quốc này từ một xã hội tương đối trung cổ thành một quốc gia công nghiệp hóa hiện đại.
Sự kiện đảo Ganghwa
thumb|Lực lượng Nhật Bản trên tàu Unyō đang tiến hành đổ bộ lên đảo Ganghwa năm 1875
Tại Triều Tiên, chế độ Quân chủ chuyên chính mãnh liệt của Hưng Tuyên Đại Viện Quân bị Hoàng hậu Minh Thành (Mẫn Phi) lật đổ, Mẫn Phi thiết lập một chính sách đóng cửa (bế quan tỏa cảng) với các cường quốc châu Âu. Pháp và Hoa Kỳ đã tiến hành một số nỗ lực nhằm khởi động thương mại với Triều Tiên nhưng bất thành, tất cả đều diễn ra chỉ trong thời gian Hưng Tuyên Đại Viện Quân nắm quyền. Tuy nhiên, sau khi Đại Viện Quân bị loại khỏi quyền lực, nhiều quan viên mới vốn không ủng hộ ý tưởng mở cửa thông thương với người ngoại quốc cũng lên nắm quyền. Trong khi xảy ra bất ổn chính trị, Nhật Bản nhanh chân phát triển một kế hoạch quân sự nhằm mở cửa, tận dụng sức mạnh Hải quân và gia tăng tầm ảnh hưởng của mình lên Triều Tiên - trước khi một cường quốc châu Âu nào đó có thể tiến hành điều này. Năm 1875, kế hoạch của họ được biến thành hành động, chiến hạm Unyō của Hải quân Nhật Bản dưới quyền Inoue Yoshika được phái đi khảo sát khu vực duyên hải nằm trong vùng biển đặc quyền kinh tế mà không được phía Triều Tiên cho phép.
Ngày 20 tháng 9, Unyō tiếp cận đảo Ganghwa, vốn là nơi từng diễn ra các vụ xung đột, chạm trán bạo lực, đẫm máu giữa Hải quân nhà Triều Tiên với các lực lượng quân sự nước ngoài trong những thập niên trước đó. Những ký ức và cảnh báo về các cuộc chạm trán này vẫn còn nguyên vẹn và lực lượng đồn trú ven biển Triều Tiên sẽ bắn bất kỳ tàu chiến ngoại quốc nào cố gắng tiếp cận. Tuy thế, Inoue Yoshika vẫn lệnh cho hạ thủy một thuyền nhỏ, lấy cớ là để nghiên cứu nước ngọt, tiến gần vào làm mồi nhử. Quân Triều Tiên khai hỏa, Un'yō chớp lấy thời cơ, sử dụng hỏa lực vượt trội của mình để khắc chế pháo thủ của Triều Tiên. Sau đó, lực lượng Nhật Bản tiến công một thành phố ven biển khác của Triều Tiên rồi mới triệt thoái về Nhật Bản.
Các điều khoản
thumb|left|Điều quy Tu hảo Nhật-Triều, 26 tháng 2 năm 1876 - cơ quan sử liệu của [[Bộ Ngoại giao (Nhật Bản)|Bộ Ngoại giao Nhật Bản]]
Sau chiến thắng, Nhật Bản sử dụng "ngoại giao pháo hạm" để gây áp lực buộc Triều Tiên ký kết điều ước bất bình đẳng. Theo đó, người Nhật sẽ bắt Triều Tiên mở cửa giống như cái cách mà hạm đội của Matthew Perry đã làm với Nhật vào năm 1853. Theo điều ước, Triều Tiên kết thúc vị thế là quốc gia chư hầu của Đại Thanh và phải mở cửa ba hải cảng cho mậu dịch với Nhật Bản. Điều ước cũng cấp cho người Nhật nhiều quyền lợi Triều Tiên mà tương tự như người phương Tây nhận được tại Nhật Bản, như đặc quyền về kinh tế, luật pháp và ngoại giao.
Những người đàm phán chính là Kuroda Kiyotaka bên phía Nhật Bản và Shin He-on (申櫶) bên phía Triều Tiên.
Các điều khoản của điều ước:
Điều 1: viết rằng Đại Triều Tiên là một quốc gia độc lập, "...một đất nước tự chủ giữ quyền bình đẳng giống như Nhật Bản Quốc." Đây là một nỗ lực của Nhật Bản nhằm tách Triều Tiên khỏi quan hệ chư hầu truyền thống với các triều đại phong kiến Trung Quốc.
Điều 2: quy định rằng Nhật Bản và Triều Tiên sẽ trao đổi sứ thần trong vòng 15 tháng và duy trì thường xuyên các phái bộ ngoại giao tại mỗi quốc gia. Triều Tiên cử lễ tào phán thư thân tiếp, giao tế, thương nghị với sứ thần Nhật Bản, đồng thời, phía Nhật Bản cũng sẽ cử ngoại vụ khanh thân tiếp, giao tế, thương nghị với sứ thần Triều Tiên.
Điều 3: Nhật Bản sẽ sử dụng Quốc văn (tiếng Nhật) và bản dịch Hán văn trong công việc giao thiệp, trong khi Triều Tiên sử dụng Hán văn.
Điều 4: chấm dứt vai trò trung gian ngoại giao kéo dài hàng thế kỷ của Tsushima khi bãi bỏ toàn bộ các hiệp định đang tồn tại giữa Triều Tiên và Tsushima.
Ngoài việc mở cửa cảng Pusan, Điều 5 cho phép tìm kiếm tại các đạo Kyongsang, Kyonggi, Chungchong, Cholla, Hamgyung và thêm hai hải cảng phù hợp nữa để tiến hành mậu dịch với Nhật Bản, mở cửa vào tháng 10 năm 1877.
Điều 6: đảm bảo cứu trợ cho các tàu bị mắc cạn hoặc đắm dọc bờ biển Triều Tiên hoặc Nhật Bản.
Điều 7: cho phép bất kỳ thủy thủ Nhật Bản nào tiến hành các hoạt động khảo sát và lập bản đồ tùy ý tại các vùng biển ngoài đường bờ biển của bán đảo Triều Tiên.
Điều 8: cho phép các thương dân Nhật Bản cư trú, giao dịch không bị cản trở, và quyền được thuê đất và xây dựng vì các mục đích này tại các cửa khẩu được chỉ định.
Điều 9: đảm bảo quyền tự do cho hoạt động mậu dịch mà không gặp hạn chế hoặc ngăn cấm từ cả hai chính phủ.
*Điều 10: quy định công dân Nhật Bản phạm tội tại Triều Tiên sẽ được giao lại cho quan viên Nhật Bản tại Triều Tiên để tiến hành điều tra, xét xử và ngược lại.
Hậu quả
nhỏ|Bốn khẩu súng Gatling do quân đội Nhật dựng lên ở Ganghwa, vào năm 1876
Một năm sau, một hạm đội của Nhật Bản dưới quyền chỉ huy của Kuroda Kiyotaka lại đến Triều Tiên, yêu cầu xin lỗi từ phía chính phủ Triều Tiên và đề xuất một hiệp định thương nghiệp giữa hai quốc gia. Chính phủ Triều Tiên quyết định chấp thuận yêu cầu này với hy vọng sẽ tiếp thu lại một số kỹ thuật quân sự nhằm phòng thủ quốc gia trước bất kỳ cuộc xâm lược nào trong tương lai. Tuy nhiên, hiệp định cuối cùng lại thành ra là một "Điều ước bất bình đẳng" tiếp theo với chính Nhật Bản mà Triều Tiên tiếp tục ký kết. Điều ước trao đặc quyền ngoại giao cho người Nhật tại Triều Tiên và cũng buộc Triều Tiên phải mở tiếp 3 cảng nữa cho thương nhân Nhật Bản vào buôn bán, cụ thể là Busan, Incheon và Wonsan. Với việc ký kết điều ước bất bình đẳng này với Nhật Bản, Đế quốc Đại Hàn tiếp tục bị phụ thuộc vào ngoại bang đồng thời trở nên dễ bị Đế quốc Nhật Bản xâm lược hơn.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Điều ước bất bình đẳng Nhật–Triều 1876**, còn được gọi là **Điều quy Tu hảo Nhật-Triều** theo tiếng Nhật hoặc **Điều ước đảo Ganghwa** theo tiếng Triều Tiên, được thực hiện giữa đại diện ngoại
**Hiệp ước bất bình đẳng** là tên Trung văn của các điều ước Nhà Thanh ký kết với các nước phương Tây, Nga và Đại Nhật Bản trong thế kỷ 19 và 20, tất cả
**Triều Tiên Cao Tông** (Hangul: 조선 고종; Hanja: 朝鮮高宗; RR: Gojong; MR: Kojong, 1852 - 1919) là vị vua thứ 26 và cũng là vị vua đầu tiên của nhà Triều Tiên xưng danh hiệu
**Chiến tranh Nhật - Thanh** (cách gọi Nhật Bản, ), hay **chiến tranh Giáp Ngọ** (cách gọi Trung Quốc, ) là một cuộc chiến tranh giữa đế quốc Đại Thanh và đế quốc Nhật Bản
nhỏ|phải|Bản đồ Nhật Bản sau khi sát nhập Hàn Quốc **Sự kiện Nhật Bản sáp nhập Triều Tiên** ( _kankoku heigo_, ) diễn ra vào ngày 29 tháng 8 năm 1910 dựa trên "Hiệp ước
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Nhà Triều Tiên** (; tiếng Hàn trung đại: 됴ᇢ〯션〮 **Dyǒw syéon** hoặc 됴ᇢ〯션〯 **Dyǒw syěon**) hay còn gọi là **Triều Tiên Lý Thị** (), Bắc Triều Tiên gọi là **Triều Tiên Phong kiến Vương triều**
Đế quốc Nhật Bản. Cho tới trước khi [[Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thuộc địa của Nhật tại vùng Đông Á đã tăng gấp gần **5 lần** diện tích quốc gia]] là
**Bá tước ,** (9 tháng 11, 1840 - 23 tháng 8, 1900), còn được gọi là **Kuroda Ryōsuke** (黑田 了介, "Hắc Điền Liễu Giới"), là một chính trị gia Nhật Bản thời Meiji, và Thủ
**Đế quốc Đại Hàn** () là quốc hiệu chính thức của bán đảo Triều Tiên trong giai đoạn từ năm 1897–1910, được tuyên bố thành lập vào ngày 13 tháng 10 năm 1897 để thay
Tên tàu Nhật tuân theo các quy ước khác nhau từ những quy ước điển hình ở phương Tây. Tên tàu buôn thường chứa từ _maru_ ở cuối (nghĩa là _vòng tròn_), trong khi tàu
**Cuộc viễn chinh của Hoa Kỳ đến Triều Tiên**, tại Triều Tiên gọi là **_Shinmiyangyo_** () là một hành động quân sự của Hoa Kỳ tại Triều Tiên, chủ yếu diễn ra tại đảo Ganghwa
là danh xưng lực lượng quân sự hợp thành của Đế quốc Nhật Bản. Sau khi nắm được quyền lực kể từ ngày 3 tháng 1 năm 1868, Thiên hoàng Minh Trị đã thực hiện
Quân Thổ Ottoman tham gia Chiến tranh thế giới thứ nhất ở ba mặt trận chính:Mặt trận Caucasus, mặt trận Trung Cận Đông (Lưỡng Hà và Palestine), và nổi tiếng nhất, tại bán đảo Gallipoli
**Người Nhật Bản ở Nga** tạo thành từ một phần nhỏ của cộng đồng _Nikkeijin_ trên toàn thế giới, bao gồm chủ yếu là người Nhật Bản ở nước ngoài và con cháu của họ
**Đại Hàn Dân Quốc**, gọi tắt là **Hàn Quốc**, là một quốc gia ở Đông Á; cấu thành nửa phía nam bán đảo Triều Tiên và ngăn cách với Cộng hòa Dân chủ Nhân dân
là vị Thiên hoàng thứ 122 của Nhật Bản theo Danh sách Thiên hoàng truyền thống, trị vì từ ngày 13 tháng 2 năm 1867 tới khi qua đời. Ông được đánh giá là một
**Pedro II** (tiếng Anh: _Peter II_; 02 tháng 12 năm 1825 - 5 tháng 12 năm 1891), có biệt danh là "**Người cao thượng**", là vị hoàng đế thứ 2 và cuối cùng của Đế
**Chiến tranh Việt – Xiêm (1841–1845)** là cuộc chiến giữa hai nước Xiêm La dưới thời Rama III và Đại Nam thời Thiệu Trị, diễn ra trên lãnh thổ Campuchia (vùng phía Đông Nam Biển
là một nhà ngoại giao và chính sách trong thời kỳ đầu Minh Trị tại Nhật Bản. ## Tiểu sử Soejima Taneomi sinh ra trong một gia đình _samurai_ tại Saga, thuộc tỉnh Hizen (nay
**Jean-Baptiste Petrus Trương Vĩnh Ký** (chữ Hán: 張永記, 1837–1898), tên hồi nhỏ là **Trương Chánh Ký**, hiệu **Sĩ Tải**, là một nhà văn, nhà ngôn ngữ học, nhà giáo dục và khảo cứu văn hóa,
là thủ đô trên thực tế và là một trong 47 tỉnh của Nhật Bản thuộc vùng Kanto, phía đông của đảo chính Honshu. Đây là nơi đặt Hoàng cung và các cơ quan đầu
**Giáo hoàng Piô XII** (Tiếng Latinh: _Pius PP. XII_, Tiếng Ý: _Pio XII_, tên khai sinh là **Eugenio Maria Giuseppe Giovanni Pacelli**, 2 tháng 6 năm 1876 – 9 tháng 10 năm 1958) là vị
**Tả Tông Đường** (chữ Hán: 左宗棠; bính âm: Zuǒ Zōngtáng, hoặc còn được đọc là Tso Tsung-t'ang; 10 tháng 11 năm 1812 – 5 tháng 9 năm 1885), tên tự là **Quý Cao** (季高), hiệu
**Tân Cương** (; ; bính âm bưu chính: **Sinkiang**), tên chính thức là **Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương**, là một khu vực tự trị tại Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Năm
**Chiến tranh Pháp – Đại Nam** hoặc **chiến tranh Pháp – Việt**, hay còn được gọi là **Pháp xâm lược Đại Nam** là cuộc xung đột quân sự giữa nhà Nguyễn của Đại Nam và
**Alexander Turney Stewart** (12 tháng 10 năm 1803 – 10 tháng 4 năm 1876) là một doanh nhân người Ailen thành công, người đã kiếm được khối tài sản trị giá hàng triệu đô la
**Nhà Nguyễn** (chữ Nôm: 茹阮, chữ Hán: 阮朝; Hán-Việt: _Nguyễn triều_) là triều đại quân chủ cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Nhà Nguyễn được thành lập sau khi
**Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu**; (chữ Hán: 孝欽顯皇后; ; ; trước đây La Mã hóa là **Từ Hi Thái hậu T'zu-hsi**; 29 tháng 11 năm 1835 – 15 tháng 11 năm 1908), thường được gọi
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Tổng thống Hoa Kỳ** (, viết tắt là POTUS) là nguyên thủ quốc gia và người đứng đầu chính phủ của Hoa Kỳ. Tổng thống lãnh đạo chính quyền liên bang Hoa Kỳ và thống
liên_kết=https://en.wikipedia.org/wiki/File:Colonial_Africa_1913_map.svg|nhỏ|300x300px|Bản đồ các thuộc địa châu Phi của các đế quốc châu Âu vào năm 1913 (Bỉ (vàng), Anh (hồng da cam), Pháp (xanh lam), Đức (ngọc lam), Ý (xanh lục), Bồ Đào Nha (tím)
hay **chiến tranh Minh Trị Duy tân**, là một cuộc nội chiến ở Nhật Bản diễn ra từ năm 1868 đến năm 1869 giữa quân đội của Mạc phủ Tokugawa đang cầm quyền và những
**Diệt chủng Armenia** () là những cuộc thảm sát và thanh lọc sắc tộc có hệ thống với người dân tộc Armenia ở Tiểu Á và các vùng lân cận, được thực hiện bởi Đế
**Lý Hồng Chương** (, 1823 – 1901) là một đại thần triều đình nhà Thanh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là người tỉnh An Huy, xuất thân gia đình quan lại. Trong cuộc đời
**Sarawak** (Phiên âm tiếng Việt: Sa-ra-vác) là một trong hai bang của Malaysia nằm trên đảo Borneo (cùng với Sabah). Lãnh thổ này có quyền tự trị nhất định trên lĩnh vực hành chính, nhập
**Philippe Mari Henri Roussel, bá tước de Courcy** (30 tháng 5 năm 1827 - 8 tháng 11 năm 1887, phiên âm tiếng Việt là **Đờ Cuốc-xi**) là một trung tướng của quân đội Pháp. Ông
**Khác Thuận Hoàng quý phi** (chữ Hán: 恪順皇貴妃; 27 tháng 2, năm 1876 - 15 tháng 8, năm 1900), được biết đến với tên gọi **Trân phi** (珍妃), là một phi tần rất được sủng
nhỏ|phải|Iwakura Tomomi Ảnh Iwakura trên đồng 500 yen cũ là một chính khách Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong cuộc Minh Trị Duy Tân, quan điểm của ông có nhiều ảnh hưởng với
**Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu** (chữ Hán: 孝貞顯皇后; ; 12 tháng 8, năm 1837 – 8 tháng 4, năm 1881), được biết đến như **Từ An Hoàng thái hậu** (慈安皇太后) hoặc **Đông Thái hậu** (東太后),
**Petar I** (; – 16 tháng 8 năm 1921) là Vua của Vương quốc Serbia từ ngày 15 tháng 6 năm 1903 đến ngày 1 tháng 12 năm 1918. Ngày 1 tháng 12 năm 1918,
**Maputo** (), tên cũ là **Lourenço Marques** cho tới trước năm 1976, là thủ đô và thành phố đông dân nhất Mozambique. Nằm tại cực nam Mozambique, Maputo nằm cách biên giới với Eswatini và
**Xứ Bảo hộ Campuchia** (tiếng Khmer: កម្ពុជាសម័យអាណានិគម, tiếng Pháp: _Protectorat français du Cambodge_), hoặc **Campuchia thuộc Pháp** (tiếng Pháp: _Cambodge français_) là một thành viên của Liên bang Đông Dương. Với sự vận động của
**Electron** hay **điện tử**, là một hạt hạ nguyên tử, có ký hiệu là hay , mà điện tích của nó bằng trừ một điện tích cơ bản. Các electron thuộc về thế hệ thứ
**Sir Winston Leonard Spencer Churchill** (30 tháng 11 năm 187424 tháng 1 năm 1965) là một chính khách, binh sĩ và cây bút người Anh. Ông từng hai lần giữ cương vị Thủ tướng Vương
**Ninh Kiều** là quận trung tâm cũ của thành phố Cần Thơ, Việt Nam. Quận Ninh Kiều là nơi tập trung chủ yếu các cơ quan ban ngành và là trung tâm kinh tế, văn
thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Trung Quốc tại thủ đô [[Seoul, Hàn Quốc]] thumb|nhỏ|phải|210x210px|Đại sứ quán Hàn Quốc tại thủ đô [[Bắc Kinh, Trung Quốc]] **Quan hệ Trung Quốc – Hàn Quốc** là quan hệ ngoại giao
**Thanh Tuyên Tông** (chữ Hán: 清宣宗, 16 tháng 9 năm 1782 – 26 tháng 2 năm 1850), Tây Tạng tôn vị **Văn Thù Hoàng đế** (文殊皇帝), là vị Hoàng đế thứ 8 của triều đại
Lịch sử Ấn Độ bắt đầu với thời kỳ Văn minh lưu vực sông Ấn Độ, một nền văn minh phát triển hưng thịnh tại phần Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ từ năm
**Bùi Văn Dị** (裴文禩, 1833 – 1895), còn được gọi là **Bùi Dị**, tự là _Ân Niên_(殷年), các tên hiệu: _Tốn Am(遜庵), Do Hiên(輶軒), Hải Nông(海農), Châu Giang(珠江)_; là danh sĩ, nhà ngoại giao và