✨Winston Churchill

Winston Churchill

Sir Winston Leonard Spencer Churchill (30 tháng 11 năm 187424 tháng 1 năm 1965) là một chính khách, binh sĩ và cây bút người Anh. Ông từng hai lần giữ cương vị Thủ tướng Vương quốc Anh: lần một từ năm 1940 đến năm 1945 trong Thế chiến thứ hai, và lần hai từ năm 1951 đến năm 1955. Ngoại trừ từ năm 1922 đến năm 1924, ông ngồi ghế Nghị sĩ (MP) từ năm 1900 đến năm 1964, đại diện cho tổng cộng 5 khu vực bầu cử thuộc Vương quốc Anh. Với hệ tư tưởng ngả về chủ nghĩa tự do kinh tế và chủ nghĩa đế quốc, ông là thành viên của Đảng Bảo thủ suốt phần lớn sự nghiệp trên chính trường, thậm chí từng lãnh đạo đảng này từ năm 1940 đến năm 1955. Ngoài ra, ông tham gia Đảng Tự do từ năm 1904 đến năm 1924.

Churchill chào đời tại Oxfordshire trong gia đình Spencer giàu sang và quyền quý, mang cả gốc Anh lẫn Mỹ. Ông gia nhập Quân đội Anh vào năm 1895, từng tham chiến tại Ấn Độ thuộc Anh, Sudan, và Nam Phi, nổi tiếng với vai trò phóng viên chiến sự và những hồi ký kể lại cuộc chiến. Ông được bầu làm MP Bảo thủ vào năm 1900, song từ bỏ để gia nhập Đảng Tự do vào năm 1904. Dưới chính phủ Tự do thời H. H. Asquith, Churchill được bổ nhiệm làm Chủ tịch Ban Giao thương và Bộ trưởng Nội vụ. Trong giai đoạn này, ông lên tiếng đòi cải cách hệ thống nhà tù và an ninh xã hội cho người lao động. Giữ chức Đệ nhất Đại thần Hải quân hồi Thế chiến thứ nhất, ông là người chịu trách nhiệm chính cho Chiến dịch Gallipoli; song sau khi rõ ràng đây là một thảm bại hoàn toàn, Churchill bị giáng xuống chức Tướng quốc Lãnh địa Công tước Lancaster. Ông xin từ chức vào tháng 11 năm 1915 để gia nhập trung đoàn Royal Scots Fusilier ở Mặt trận phía Tây trong vòng 6 tháng. Năm 1917, ông quay về phục vụ cho chính phủ thời David Lloyd George, kiêm nhiệm chức Bộ trưởng Đạn dược, Quốc vụ khanh Chiến tranh, Quốc vụ khanh Không quân, và Quốc vụ khanh Thuộc địa. Ông được giao phó phận sự giám sát Hiệp định Anh-Ireland và chính sách đối ngoại của Đế quốc Anh ở Trung Đông. Sau hai năm ngồi ghế Nghị viện, ông được phong chức Bộ trưởng Ngân khố dưới chính phủ Bảo thủ thời Stanley Baldwin.

Nghỉ công vụ trong "những năm tháng hoang dại" hồi thập niên 30, Churchill dẫn đầu nỗ lực kêu gọi chính phủ tái vũ trang quân đội để phòng ngừa chủ nghĩa quân quốc đang trỗi dậy ở Đức Quốc xã. Khi Thế chiến thứ hai nổ ra, ông được tái bổ nhiệm chức Đệ nhất Đại thần Hải quân. Tháng 5 năm 1940, ông nối gót Neville Chamberlain nhậm chức Thủ tướng Anh, sau đó giám sát đốc thúc nỗ lực chiến tranh của phe Đồng minh chống lại phe Trục, thành quả là chiến thắng vào năm 1945. Sau khi Đảng Bảo thủ thất cử trong cuộc tổng tuyển cử năm 1945, Churchill trở thành Lãnh đạo phe Đối lập trong nghị viện Anh. Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, ông đã ra thông cáo nổi tiếng rằng, một "bức màn sắt" đã buông xuống vì ảnh hưởng sâu rộng của Liên Xô ở Đông Âu, đồng thời liên tục nhấn mạnh sự đoàn kết của toàn thể châu Âu. Giữa hai nhiệm kỳ Thủ tướng, ông chắp bút viết nhiều hồi ký thời chiến và vinh dự nhận Giải Nobel Văn học vào năm 1953. Ông thất cử chức Thủ tướng năm 1950, song tái nhiệm vào năm 1951. Chính phủ nhiệm kỳ hai của Churchill hầu hết phải giải quyết các vấn đền liên quan đến đối ngoại, đặc biệt là quan hệ song phương Anh-Mỹ và những di sản của Đế quốc Anh sau khi Ấn Độ giành độc lập. Về đối nội, Churchill chú trọng vào các chính sách xây dựng nhà ở, cũng như hoàn thành dự án chế tạo bom hạt nhân được khởi xướng bởi người tiền nhiệm. Do sức yếu, ông thôi chức Thủ tưởng vào năm 1955 nhưng vẫn giữ một ghế MP trong Nghị viện cho tới năm 1964. Churchill qua đời vào năm 1965; một lễ quốc tang đã được cử hành để tưởng nhớ ông.

Được công nhận rộng rãi là nhân vật lịch sử cực kỳ quan trọng của thế kỷ 20, Churchill vẫn rất nổi tiếng ở các nước Anh ngữ, những nơi coi ông như một thủ lĩnh thời chiến lỗi lạc đã góp phần bảo vệ nền tự do dân chủ của châu Âu trước nguy cơ chủ nghĩa phát xít lan rộng. Tuy vậy, bên cạnh một số lỗi lầm thời chiến, ông cũng hứng chịu nhiều chỉ trích vì tư tưởng đế quốc chủ nghĩa và quan điểm phân biệt chủng tộc của mình .

Đầu đời

Tuổi thơ và giáo dục: 1874–1895

thumb|[[Lady Randolph Churchill|Jennie Spencer Churchill chụp cùng hai cậu con trai, Jack (trái) và Winston (phải), vào năm 1889.]] Churchill chào đời ngày 30 tháng 11 năm 1874 tại ngôi nhà lâu đời của dòng họ, Cung điện Blenheim ở Oxfordshire. Dòng dõi phía nội của Churchill là quý tộc Anh, theo đó ông là hậu duệ trực tiếp của Đệ nhất Công tước xứ Marlborough. Cha ông, Lord Randolph Churchill, là đại biểu của Đảng Bảo thủ, từng được ứng cử làm Nghị sĩ (MP) của Woodstock vào năm 1873. Mẹ ông, Jennie, là con gái của Leonard Jerome, một doanh nhân người Mỹ giàu có.

Năm 1876, ông nội của Churchill, John Spencer-Churchill, Đệ thất Công tước xứ Marlborough, được bổ nhiệm làm Phó vương Ireland, lãnh thổ mà bấy giờ vẫn thuộc Vương quốc Liên hiệp Anh-Ireland. Randolph trở thành thư ký riêng của Spencer-Churchill và cả gia đình chuyển đến sống ở Dublin. Em trai ông, Jack, chào đời tại đây vào năm 1880. Vào những năm 1880, Randolph và Jennie trở nên xa cách nhau, việc nuôi nấng hai anh em do vậy được đảm nhận bởi bảo mẫu Elizabeth Everest. Khi bà mất vào năm 1895, Churchill kể lại rằng "cô ấy là người bạn gần gũi và trìu mến nhất của tôi trong suốt 20 năm cuộc đời".

Năm lên 7, Churchill bắt đầu học nội trú ở Trường St George tại Ascot, Berkshire, song học không giỏi và nhiều khi tỏ thái độ xấu. Năm 1884, ông chuyển tới học tại Trường Brunswick ở Hove, nơi thành tích học tập khá lên ít nhiều. Tháng 4 năm 1888, lúc 13 tuổi, ông suýt soát vượt qua bài kiểm tra đầu vào của Trường Harrow. Cha Churchill muốn con trai mình sẵn sàng cho binh nghiệp, nên ba năm cuối cấp ở Harrow được dành để rèn luyện quân sự cho Churchill. Sau hai nỗ lực bất thành để vào được Học viện Quân sự Hoàng gia, Sandhurst, ông rốt cuộc được nhận ở lần thứ ba, trở thành học viên sĩ quan kỵ binh kể từ tháng 9 năm 1893. Cha ông không may qua đời vào tháng 1 năm 1895, một tháng sau khi Churchill đỗ Sandhurst.

Cuba, Ấn Độ, và Sudan: 1895–1899

thumb|upright|Churchill vận quân phục của [[Trung đoàn Hussar 4 tại Aldershot vào năm 1895.]] Tháng 2 năm 1895, Churchill được ủy nhiệm làm thiếu úy của Trung đoàn Hussar 4 thuộc Quân đội Anh, đặt bản doanh tại Aldershot. Do rất muốn tận mắt chứng kiến cảnh quân đội hành động, ông lợi dụng ảnh hưởng của mẹ để được ra ngoài chiến trường. Mùa thu năm 1895, Churchill đồng hành cùng Reggie Barnes tới Cuba để quan sát cuộc chiến tranh giành độc lập ở đây, đồng thời giúp đỡ quân đội Tây Ban Nha đàn áp các chiến sĩ độc lập. Churchill gửi báo cáo chiến sự cho tờ Daily Graphic ở London. Sau đó, ông tiếp tục du hành tới Thành phố New York, và với sự ngưỡng mộ Hoa Kỳ lớn lao, đã viết thư gửi mẹ rằng "người Mỹ quả là một dân tộc phi thường!". Tháng 10 năm 1896, Churchill cùng đoàn Hussar đổ bộ Bombay, đóng quân ở Bangalore. Trong 19 tháng lưu trú ở Ấn Độ, ông đã tới thăm Calcutta ba lần và tham gia các đoàn viễn chinh tới Hyderabad và North West Frontier.

Ở Ấn Độ, Churchill bắt đầu quá trình tự học, nghiền ngẫm các tác phẩm của Platon, Edward Gibbon, Charles Darwin và Thomas Babington Macaulay do mẹ ông gửi. Hai mẹ con ông cũng thường xuyên trao đổi thư từ với nhau. Vì muốn tìm hiểu về chính trị, ông đã yêu cầu mẹ gửi cho cuốn niên giám The Annual Register. Trong một bức thư năm 1898, ông đã giãi bày quan điểm tôn giáo của mình với người mẹ kính yêu như sau: "Con không chấp nhận Kitô giáo hay bất cứ một hình thức tín ngưỡng nào khác". Tuy Churchill đã được rửa tội bởi Giáo hội Anh, song theo chia sẻ thì ông đã trải qua giai đoạn chống-Kitô hiểm độc thời niên thiếu, khiến ông hoài nghi về sự tồn tại của Thiên Chúa khi lớn lên. Trong một bức thư khác gửi anh em họ, ông đã gọi tôn giáo là "thứ thuốc mê khoái khẩu", đồng thời đề cao Kháng Cách giáo hơn Công giáo La Mã vì cho rằng đó là "một bước gần hơn đến Lý lẽ".

Hứng thú với công việc của nghị viện Anh, Churchill tuyên bố bản thân là "đảng viên Tự do chỉ trên danh nghĩa", vì rằng ông sẽ không đời nào chấp thuận sự ủng hộ của Đảng Tự do đối với nền độc lập tự chủ của Ireland. Thay vào đó, ông đã chọn ủng hộ cánh dân chủ Tory của Đảng Bảo thủ. Trên đường về nhà, ông dừng chân tại Claverton Down, gần Bath, để đọc một bài diễn văn thay mặt Liên minh Primrose thuộc Đảng Bảo thủ cho công chúng lắng nghe; đây cũng là diễn văn chính trị đầu tiên của ông. Kết hợp hai lập trường bảo thủ và cải lương, ông ủng hộ một nền giáo dục phi-giáo phái và thế tục, song phản đối quyền bầu cử của phụ nữ.

Churchill tình nguyện tham gia Lực lượng Malakand của Bindon Blood trong chiến dịch càn quét phiến quân Mohmand ở Thung lũng Swat phía tây bắc Ấn Độ. Blood chấp nhận với điều kiện Churchill phải làm phóng viên chiến sự; đánh dấu khởi đầu cho nghiệp viết lách của ông. Ông quay về Bangalore vào tháng 10 năm 1897 và viết cuốn The Story of the Malakand Field Force, nhận được nhiều đánh giá tích cực. Ông cũng sáng tác một cuốn tiểu thuyết lãng mạn Ruritania có nhan đề là Savrola. Churchill cứ lúc nào rảnh là chắp bút viết, nhất là vào những khoảng thời gian ông không giữ chức vụ nào trên chính trường; Roy Jenkins gọi đó là "toàn bộ thói quen" của Churchill. Viết lách là thứ che chở ông khỏi căn bệnh trầm cảm định kỳ, hay "con chó ma" theo cách gọi của ông.

Sử dụng các mối liên lạc ở London, Churchill nhận chức trung úy của đoàn Thương kỵ 21 của Tướng Kitchener đang được điều đến Sudan, đồng thời cũng đóng góp các bài viết cho tờ The Morning Post. Sau khi tham chiến tại Trận Omdurman vào ngày 2 tháng 9 năm 1898, Đoàn Thương kỵ 21 nhận lệnh thoái lui. Tháng 10 cùng năm, Churchill về Anh và chắp bút viết cuốn The River War, một hồi ký chiến tranh được xuất bản vào tháng 11 năm 1899; đây cũng là thời điểm ông quyết định rời quân ngũ. Churchill tỏ ra khá bất bình đối với các hành động của Kitchener trong cuộc chiến, nhất là vì ông này đã đối xử không nhân đạo đối với những người lính địch bị thương, hơn nữa còn bất nhã mạo phạm lăng mộ của Muhammad Ahmad ở Omdurman.

Ngày 2 tháng 12 năm 1898, Churchill khởi hành đi Ấn Độ để hoàn thiện thủ tục giải ngũ và xin thôi chức trong trung đoàn Hussar 4. Ông dành phần lớn thời gian ở đó chơi polo, môn bóng duy nhất mà ông yêu thích. Sau khi thôi chức, ông rời bến Bombay vào ngày 20 tháng 3 năm 1899, hướng về Anh với quyết tâm theo nghiệp chính trị.

Chính trị và Nam Phi: 1899–1901

thumb|right|upright|Chân dung Churchill năm 1900 quanh khoảng thời gian ông được bầu làm Nghị sĩ lần đầu tiên. Kiếm tìm một sự nghiệp trong nghị viện, Churchill thường phát biểu tại các cuộc họp của Đảng Bảo thủ và được chọn làm một trong hai ứng cử viên nghị sĩ của đảng này cho cuộc bầu cử phụ tháng 6 năm 1899 ở Oldham, Lancashire. Trong khi vận động bầu cử tại đây, Churchill tự xưng là "một đảng viên Bảo thủ và Dân chủ Tory". Tuy Đảng Bảo thủ kiểm soát nhiều ghế Oldham, kết quả lại là một chiến thắng suýt soát của Đảng Tự do.

Nhận thấy Chiến tranh Boer thứ hai sắp nổ ra giữa Anh quốc và Cộng hòa Boer, Churchill giong buồm xuống Nam Phi với vai trò phóng viên của tờ The Morning Post do James Nicol Dunn chủ bút. Vào tháng 10, ông lữ hành đến vùng tranh chấp Ladysmith, không may rơi vào vòng vây của quân Boer, bèn đổi hướng đến Colenso. Sau khi con tàu ông đi bị trật ray do pháo kích của quân Boer, ông bị bắt giữ làm tù binh chiến tranh (POW) và bị áp giải tới trại tập trung ở Pretoria. Vào tháng 12, Churchill tẩu thoát và lẩn trốn những kẻ lùng sục bằng cách đi chui trên một chuyến tàu chở hàng rồi nấp trong một khu mỏ, rốt cuộc toàn mạng chạy sang được Mozambique thuộc Bồ Đào Nha. Cuộc tẩu thoát đáng nể của ông rất đình đám trên các mặt báo.

Tháng 1 năm 1900, ông tái nhập ngũ một thời gian ngắn, đảm chức trung úy của trung đoàn Khinh kỵ Nam Phi, tham gia cùng Redvers Buller để hóa giải Cuộc vây hãm Ladysmith và chiếm cứ Pretoria. Ông thuộc trong số những chiến sĩ Anh đầu tiên tới cả hai nơi. Ông và người anh họ, Đệ cửu Công tước Marlborough, đã đích thân buộc 52 lính gác Boer phải đầu hàng. Suốt cuộc chiến, ông công khai chỉ trích các định kiến chống-Boer, kêu gọi đối xử với họ bằng "sự rộng lượng và bao dung", và sau chiến tranh thì ông khuyên người Anh nên cảm thấy cao thượng về thắng lợi đó. Vào tháng 7, sau khi thôi chức trung úy, ông trở về Anh. Các trình thuật cho Morning Post của ông đã được xuất bản dưới nhan đề London to Ladysmith via Pretoria và bán rất chạy.

Churchill thuê một căn hộ ở Mayfair thuộc London, sống ở đó suốt 6 năm tới. Ông tiếp tục tranh cử với tư cách ửng cử viên Bảo thủ tại Oldham trong cuộc tổng tuyển cử tháng 10 năm 1900, giành được chiến thắng suýt soát và trở thành Nghị sĩ khi mới 25 tuổi. Cùng tháng đó, ông xuất bản cuốn Ian Hamilton's March, kể về trải nghiệm của ông khi còn ở Nam Phi, sau trở thành tâm điểm của chuyến du thuyết Anh, Mỹ và Canada vào tháng 11. Vì Nghị sĩ lúc đó không được trả lương, nên chuyến công du này là cần thiết. Ở Mỹ, Churchill gặp gỡ Mark Twain, Tổng thống McKinley và Phó Tổng thống Theodore Roosevelt; ông và Roosevelt không quá tâm đầu ý hợp. Vào mùa xuân năm 1901, ông còn sang Paris, Madrid và Gibraltar để thuyết giảng.

Nghị sĩ Đảng Bảo thủ: 1901–1904

thumb|Churchill năm 1904 khi ông "[[crossing the floor|vượt sàn", tức là bỏ đảng đang là thành viên để tham gia đảng đối lập.]] Tháng 2 năm 1901, Churchill nhận ghế Hạ Nghị viện, với bài phát biểu nhậm chức được giới báo chí đặc biệt chú ý. Ông giao du với nhóm Bảo thủ có tên là Hughligans, song bất đồng với chính phủ Bảo thủ ở rất nhiều vấn đề, nhất là về ngân sách quốc phòng. Ông muốn chính phủ đầu tư tập trung vào hải quân. Ý kiến này đã làm phật lòng các nghị sĩ Bảo thủ thuộc hàng ghế trước song nhận được sự ủng hộ lớn của các đảng viên Tự do, những người mà Churchill ngày càng thân thiết, đặc biệt là cánh chủ nghĩa Đế quốc Tự do như H. H. Asquith. Với bối cảnh đó, Churchill sau này kể lại rằng ông "đã dần trôi về cánh tả" của chính trị nghị viện. Ông đã cân nhắc kín đáo về "việc sáng tạo dần dần, thông qua một quá trình tiến hóa, một cánh Dân chủ hoặc Cấp tiến với Đảng Bảo thủ", hay nói cách khác là ông có ý đồ thành lập một "Đảng Trung tâm" gắn kết giữa Bảo thủ và Tự do.

Tới năm 1903, rạn nứt giữa Churchill và Đảng Bảo thủ đã bộc lộ rõ hơn bao giờ hết, phần lớn vì ông phản đối chính sách bảo hộ kinh tế của họ. Trên danh nghĩa ủng hộ thương mại tự do, ông tham gia vào việc thành lập Liên minh Lương thực Miễn phí. Sau một thời gian huấn luyện, tiểu đoàn được điều lên Mặt trận Bỉ gần Ploegsteert. Trong hơn ba tháng tiếp theo, họ hứng chịu pháo kích triền miên nhưng không phải đối đầu với cuộc tiến công nào từ quân Đức. Trong chuyến thăm của Đệ cửu Bá tước Marlborough, Churchill đã suýt mất mạng vì một mảnh đạn pháo rơi giữa hai người họ. Tháng 5 cùng năm, tiểu đoàn 6 Fusilier Scotland Hoàng gia được hợp nhất với sư đoàn 15. Churchill không yêu cầu vị trí chỉ huy mới mà xin phép rời khỏi chiến tuyến. Hàm trung tá tạm thời của ông mãn hạn vào ngày 16 tháng 5 năm 1916.

Quay về Hạ viện, Churchill lên tiếng về vấn đề chiến tranh, kêu gọi mở rộng lệnh gọi nhập ngũ cho cả người Ireland, công nhận rộng rãi hơn lòng anh dũng của binh lính, và phân phát mũ sắt cho binh lính trên tiền tuyến. Tháng 11 năm 1916, ông thảo bài luận "Ứng dụng tốt hơn sức mạnh cơ giới để đạt được công kích trên bộ ", song bị phớt lờ. Ông nản chí do phải ngồi hàng ghế sau, và bị đổ lỗi liên tiếp vì vụ Gallipoli, phần lớn từ các đài báo Bảo thủ. Churchill phân trần trước Ủy ban Dardanellia, và họ đã xuất bản báo cáo thanh minh cho ông.

Chính phủ thời Lloyd George: 1916–1922

Bộ trưởng Đạn dược: 1917–1919

Tháng 10 năm 1916, Asquith từ chức Thủ tướng và được thay thế bởi Lloyd George. Tháng 5 năm 1917, vị thủ tướng mới cử Churchill đi thanh tra nỗ lực chiến tranh của người Pháp. Tháng 7 cùng năm, Churchill được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Đạn dược. Ông nhanh chóng đàm phán chấm dứt cuộc đình công ở nhà máy bên Sông Clyde, đồng thời đẩy mạnh sản xuất đạn dược. Trong thỉnh thư gửi Nội các vào tháng 10 năm 1917, ông đã vạch ra kế hoạch tấn công cho năm sau, điều rốt cuộc đã mang lại thắng lợi cho khối Đồng minh. Ông dập tắt một cuộc đình công nữa vào tháng 6 năm 1918, bằng cách dọa bắt công nhân phải nhập ngũ. Ở Hạ viện, Churchill đầu phiếu cho Dự luật Đại diện của Nhân dân 1918, cho phép một bộ phận phụ nữ Anh có quyền bầu cử. Tháng 11 năm 1918, bốn ngày sau khi Hòa ước được ký kết, đứa con thứ tư của Churchil, Marigold, chào đời.

Quốc vụ khanh Chiến tranh và Không quân: 1919–1921

thumb|Churchill gặp mặt các công nhân nữ tại xưởng đạn dược Georgetown gần [[Glasgow vào tháng 10 năm 1918.]] Với sự khép lại của cuộc chiến, Lloyd George kêu gọi tổng tuyển cử bắt đầu từ Thứ Bảy, ngày 14 tháng 12 năm 1918. Trong chiến dịch tranh cử, Churchill hô hào quốc hữu hóa đường sắt, kiểm soát chặt độc quyền, cải cách thuế, và thành lập Hội Quốc Liên. Ông trở lại ghế MP của Dundee và, tuy Đảng Bảo thủ chiếm thế thượng phong, Lloyd George vẫn giữ chức Thủ tướng. Tháng 1 năm 1919, Lloyd George thuyên chuyển Churchill sang công tác ở Văn phòng Chiến tranh, với vai trò vừa là Quốc vụ khanh Chiến tranh, vừa là Quốc vụ khanh Không quân.

Churchill chịu trách nhiệm giải ngũ Lục quân Anh, song ông đã thuyết phục Lloyd George giữ lại một triệu lính cho Quân đội Anh ở sông Rhine. Churchill là một trong số ít chính khách phản đối sự trừng trị mạnh tay đối với nước Đức bại trận, và ông đã góp ý rằng không nên giải giáp hoàn toàn Lục quân Đức mà phải tận dụng nhằm đề phòng mối đe dọa mới từ Nga Xô viết. Ông là đối thủ thắng thắn chống lại chính quyền cộng sản do Vladimir Lenin mới lập ra ở Nga. Ông ban đầu ủng hộ việc triển khai binh lính để giúp đỡ lực lượng Bạch vệ chống cộng trong Nội chiến Nga, song dần nhận ra rằng nguyện vọng của nhân dân Anh là đưa họ về nhà. Sau khi Xô viết giành thắng lợi, Churchill đề xuất thành lập một cordon sanitaire nhằm kìm hãm cuộc cách mạng Bolshevik, không cho nó lan rộng.

Trong Chiến tranh giành độc lập Ireland, ông tán thành cho tổ chức bán quân sự Black and Tans chiến đấu với quân cách mạng Ireland. Khi hay tin lực lượng Anh ở Iraq đụng độ với phiến quân Kurd, Churchill đã cử ngay hai sư đoàn đến chi viện, đề xuất trang bị cho họ khí mù tạt để "trừng trị bọn thổ dân ngang bướng mà không làm chúng bị trọng thương", song ý kiến này không được tiếp thu. Nhìn thoáng ra, ông cho rằng sự chiếm đóng Iraq đang làm khánh kiệt nước nhà và đề xuất, tuy bất thành, rằng chính phủ nên trao trả miền trung và nam Iraq về tay Thổ Nhĩ Kỳ.

Quốc vụ khanh Thuộc địa: 1921–1922

thumb|Quốc vụ khanh Thuộc địa Churchill thăm Lãnh thổ ủy trị Palestine, Tel Aviv, 1921. Churchill trở thành Quốc vụ khanh Thuộc địa vào tháng 2 năm 1921. Vào tháng sau, bức tranh đầu tiên do ông vẽ được trưng bày khuyết danh ở một triển lãm tại Paris. Vào tháng 5, mẹ ông qua đời. Vào tháng 8, con gái Marigold hai tuổi của ông cũng qua đời do nhiễm trùng huyết. Cái chết của Marigold đã khiến vợ chồng Churchill suy sụp đáng kể và ông bị ám ảnh bởi bi kịch này suốt phần đời còn lại.

Churchill tham dự đàm phán với các thủ lĩnh Đảng Sinn Féin và góp sức thảo Hiệp ước Anh-Ireland. Ngoài ra, ông cũng chịu trách nhiệm giảm thiểu chi phí cho sự chiếm đóng Trung Đông, đồng thời hậu thuẫn cho hai vương triều Faisal I của Iraq và Abdullah I của Jordan. Trong thời gian này, Churchill tới thăm Lãnh thổ ủy trị Palestine và, với tư tưởng ủng họ chủ nghĩa phục quốc Do Thái, đã khước từ lời thỉnh cầu cấm người Do Thái nhập cư Palestine của người Ả-Rập Palestine. Tuy vậy, ông chấp nhận một số hạn chế theo sau cuộc bạo loạn Jaffa 1921.

Tháng 9 năm 1922, khủng hoảng Chanak khơi mào do Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa đánh chiếm vùng trung lập Dardanelles, lúc bấy giờ đang nằm dưới sự kiểm soát của lực lượng trị an Anh đóng ở Chanak (hiện là Çanakkale). Churchill và Lloyd George ủng hộ kháng cự quân sự nhưng phần lớn Đảng Bảo thủ phản đối. Sự việc này đã kéo theo một cuộc tranh cãi nảy lửa, khiến Đảng Bảo thủ phải thoái lui khỏi chính phủ, rồi dẫn đến cuộc tổng tuyển cử tháng 11 năm 1922.

Nghề nghiệp giữa hai cuộc chiến

Trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1923, ông lại sát cánh cùng phe Tự do, và thua cử ở Leicester, nhưng vài tháng sau đó, ông lại quay sang Đảng Bảo thủ, mặc dù ban đầu sử dụng chiêu bài "Chống người xã hội" và là "người theo chủ nghĩa hợp hiến".

Chưa tới một năm sau, trong cuộc Tổng tuyển cử năm 1924, ông được bầu làm đại biểu cho vùng Epping với tư cách "người theo chủ nghĩa hợp hiến" và với sự hỗ trợ của Đảng bảo thủ (một bức tượng để vinh danh ông ở Woodford Green đã được dựng lên khi Woodford Green còn là một khu bên trong vùng bầu cử Epping). Năm sau đó, ông chính thức gia nhập Đảng bảo thủ, và gượng chống chế rằng "Bất kỳ ai đều có thể rời bỏ đảng, nhưng tất nhiên là cũng cần khá nhiều khéo léo để gia nhập trở lại."

Ông được chỉ định làm Bộ trưởng Tài chính năm 1924 dưới thời Stanley Baldwin và có nhiệm vụ phụ trách việc phục hồi hệ thống bản vị vàng đầy tai hại, khiến cho lạm phát, thất nghiệp, và những vụ đình công của công nhân mỏ nổi lên dẫn tới cuộc Tổng đình công năm 1926. Quyết định này đã khiến nhà kinh tế John Maynard Keynes phải viết cuốn sách "Những hậu quả kinh tế của Churchill", đưa ra lý lẽ chính xác rằng việc quay lại áp dụng bản vị vàng sẽ dẫn tới giảm phát kinh tế thế giới. Sau này Churchill coi đây là một trong những quyết định tồi nhất trong cuộc đời chính trị của ông. Để công bằng, cũng phải nói rằng ông không phải là một nhà kinh tế và rằng ông đã hành động theo lời khuyên của Thống đốc Ngân hàng Anh Quốc, Montagu Norman (Keynes đã nói về ông này, "Luôn rất quyến rũ, và luôn rất sai lầm.")

Trong cuộc Tổng đình công năm 1926, Churchill bị cho rằng đã đề xuất sử dụng súng máy để đối phó với những thợ mỏ đình công. Churchill làm chủ bút tờ báo của chính phủ, tờ British Gazette (Công báo Anh), và trong cuộc tranh luận ông đã đưa ra lý lẽ rằng "hoặc đất nước sẽ đập tan được cuộc Tổng đình công, hoặc cuộc Tổng đình công sẽ đập tan đất nước". Hơn nữa, ông tuyên bố trong cuộc tranh luận rằng Chủ nghĩa phát xít của Benito Mussolini đã "giúp đỡ cả thế giới", cho rằng nó có "một con đường để chiến đấu với những lực lượng có âm mưu lật đổ" - có nghĩa là, ông coi chế độ phải là một lực lượng bảo vệ chống lại mối đe doạ xâm nhập của cách mạng cộng sản. Ở một quan điểm, Churchill còn đi xa tới mức gọi Mussolini là "Thiên tài của Roma nhà lập pháp lớn nhất của loài người".

Chính phủ bảo thủ bị đánh bại tại cuộc Tổng tuyển cử năm 1929. Trong hai năm tiếp theo, Churchill tỏ vẻ ghẻ lạnh với ban lãnh đạo đảng Bảo thủ về những vấn đề thuế quan bảo hộ và phong trào đòi độc lập Ấn Độ, mà ông phản đối. Ông bôi nhọ người cha phong trào đòi độc lập Ấn Độ, Mahatma Gandhi, là "một thầy tu khổ hạnh bán khoả thân" người "cần phải bị đập cho một trận, trói chân tay vào cổng thành Delhi và sau đó mang ra cho một con voi lớn với vị phó vương cưỡi trên lưng giẫm đạp".

Khi Ramsay MacDonald thành lập Chính phủ quốc gia năm 1931, Churchill không được mời tham gia. Lúc ấy ông đang ở giai đoạn tồi tệ nhất về nghề nghiệp, giai đoạn được gọi là "những năm tháng thất lạc". Ông dành thời gian mấy năm tiếp sau đó để tập trung vào viết lách, gồm cuốn "Marlborough: Cuộc đời và thời đại" - một cuốn tiểu sử về tổ tiên ông là John Churchill, Quận công Marlborough thứ nhất - và "Một lịch sử của những người nói tiếng Anh" (cuốn này không được xuất bản mãi tới sau Chiến tranh thế giới thứ hai). Ông trở nên nổi tiếng nhất về những câu nói chống lại việc trao lại độc lập cho Ấn Độ (xem Ủy ban Simon và Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935).

Dù vậy, sự chú ý của ông ngay lập tức chuyển sang sự nổi lên nhanh chóng của Adolf Hitler và những mối nguy từ việc tái vũ trang của nước Đức. Trong một thời gian, ông là người duy nhất kêu gọi nước Anh phải tự tăng cường sức mạnh nhằm chống lại tình trạng chuẩn bị chiến tranh của Đức. Churchill là một người chỉ trích mãnh liệt chính sách nhân nhượng của Neville Chamberlain đối với Hitler, dẫn đầu phe bảo thủ phản đối Hiệp ước München mà Chamberlain đã tuyên bố là "hoà bình trong thời đại của chúng ta". Ông cũng tuyên bố là người ủng hộ vua Edward VIII trong thời gian xảy ra cuộc khủng hoảng thoái vị, dẫn tới một số suy đoán rằng ông có thể được chỉ định làm Thủ tướng nếu nhà vua từ chối nghe lời khuyên của Baldwin và vì thế buộc chính phủ phải từ chức. Tuy nhiên, điều này đã không xảy ra và Churchill thấy mình bị cô lập về chính trị và bị bôi bác tới bầm dập trong khoảng thời gian sau đó.

Thủ tướng thời chiến: 1940–1945

Từ Dunkirk tới Trân Châu Cảng: tháng 5 năm 1940 – tháng 12 năm 1941

thumb|right|Churchill thử ngắm bắn một khẩu tiểu liên [[Sten vào tháng 6 năm 1941. Người đứng bên phải, mặc complê sọc nhỏ và đội mũ fedora, là Walter H. Thompson, cận vệ của Churchill.]]

Thành lập chính phủ thời chiến

Vào tháng 5, phần lớn Đảng Bảo thủ và Công Đảng vẫn rất ngờ vực về vai trò lãnh đạo của Churchill. Chamberlain là thủ lĩnh Đảng Bảo thủ cho tới tháng 10, khi sức khỏe suy sụp khiến ông phải từ chức. Tại thời điểm đó, Churchill đã chiếm được cảm tình của nhiều thành phần nghi kỵ và sự kế thừa vai trò lãnh đạo đảng của Churchill được coi là thể thức.

Ông khởi đầu nhiệm kỳ thủ tướng đầu tiên của mình với việc thành lập nội các thời chiến gồm năm thành viên: Chamberlain giữ chức Viện trưởng Viện Cơ mật, Clement Attlee giữ chức Quốc khanh ấn triện cơ mật (sau giữ chức Phó Thủ tướng), Halifax giữ chức Ngoại trưởng và Arthur Greenwood giữ chức Bộ trưởng không bộ. Trên thực tế, năm thành viên này được cố vấn tăng cường bởi các thủ trưởng tham mưu và các bộ trưởng tham dự phần lớn các cuộc họp. Bên cạnh đó, nội các liên tục thay đổi suốt cuộc chiến và không có con số thành viên cố định. Đáp lại các chỉ trích trước đó về vấn đề thiếu vắng một vị trí bộ trưởng trung ương nhằm điều hành chiến sự, Churchill đã lập ra và giữ luôn chức Bộ trưởng Quốc phòng, khiến ông trở thành vị thủ tướng nắm giữ nhiều quyền lực nhất trong lịch sử Anh Quốc. Churchill cũng bổ nhiệm thêm các chuyên gia bên ngoài để thực hiện trọn vẹn các chức năng trọng yếu của chính phủ, nhất là đối với Mặt trận Hậu phương. Trong số những nhân vật được trọng dụng gồm có Ngài Beaverbrook và Frederick Lindemann, cả hai đều trở thành những cố vấn khoa học thời chiến.

Cương quyết kháng chiến

Cuối tháng 5, trước cuộc thoái lui về Dunkirk của Lực lượng Viễn chinh Anh và nguy cơ nước Pháp thất thủ kề cận, Halifax đề nghị chính phủ cân nhắc đi đến một hòa ước với Đức thông qua trung gian là Mussolini. Từ 26-28 tháng 5, các phiên họp cao cấp liên tiếp được chủ trì, trong đó có hai phiên với sự góp mặt của thủ tưởng Pháp Paul Reynaud. Churchill quyết liệt chủ chiến, ngay cả nếu Pháp đầu hàng, song chỉ khi Chamberlain ủng hộ ông thì cả thảy nội các mới thuận theo. Churchill được sự ủng hộ của hai thành viên nội các Công Đảng nhưng biết rõ rằng Chamberlain và Halifax mới là hai mắt xích quan trọng nhất. Rốt cuộc, thông qua đồng thuận của nội các bên ngoài, Churchill nẫng tay trên của Halifax và chiếm được sự ủng hộ của Chamberlain. Churchill tin rằng lựa chọn duy nhất của nước Anh là tiếp tục kháng chiến; tài hùng biện của ông đã thuyết phục công chúng bác bỏ quan điểm về việc đi đến hòa bình, đồng thời chuẩn bị tinh thần cho nhân dân Anh chịu đựng cuộc chiến dai dẳng ở phía trước – Jenkins nhận xét rằng các bài diễn văn của Churchill "là một niềm cảm hứng cho nhân dân, và là một sự giải phóng xúc cảm [catharsis] cho chính Churchill".

Từ Trân Châu Cảng tới Ngày D: tháng 12 năm 1941 – tháng 6 năm 1944

Trận Trân Châu Cảng và sự tham chiến của Hoa Kỳ

Vào hai ngày 7–8 tháng 12 năm 1941, Nhật tấn công Trân Châu Cảng và xâm lược Mã Lai. Vào ngày 8, Churchill tuyên chiến với Nhật. Ba ngày sau, Đức và Ý tuyên chiến với Hoa Kỳ. Cùng tháng đó, Churchill gặp mặt Roosevelt tại Hội nghị Washington lần một (mật danh Arcadia) để thảo luận về vấn đề ưu tiên chiến thắng ở châu Âu trước các nỗ lực chiến tranh ở Thái Bình Dương. Người Mỹ đồng ý với Churchill rằng Hitler là kẻ thù chính và sự chiến bại của Đức là chìa khóa chiến thắng của Đồng minh. Họ cũng đồng tình rằng cuộc tấn công phối hợp đầu tiên giữa Anh và Hoa Kỳ sẽ được thực hiện trong Chiến dịch Bó đuốc, một phần của cuộc càn quét Bắc Phi thuộc Pháp (nay là Algeri và Ma-rốc). Ban đầu chiến dịch được ấn định vào mùa hè năm 1942, song phải tận cuối năm 1942 thì trận El Alamein lần hai mới mở màn.

Ngày 26 tháng 12, Churchill phát biểu trước Quốc hội Hoa Kỳ. Đêm hôm đó, ông bị đau tim nhẹ và được bác sĩ Sir Charles Wilson (sau là Lord Moran) chẩn đoán mắc bệnh thoái hóa mạch vành. Tuy được khuyên phải nghỉ ngơi lấy sức, ông tiếp tục hành trình sang Ottawa hai ngày sau bằng tàu hỏa, nơi ông phát biểu trước Nghị viện Canada.

Singapore thất thủ, đánh mất Miến Điện và nạn đói Bengal

Churchill đã có sẵn quan ngại về chất lượng lính Anh như có thể thấy tại các trận chiến trước đó tại Na Uy, Pháp, Hy Lạp và Crete. Theo sau sự thất thủ của Singapore trước quân Nhật vào ngày 15 tháng 2 năm 1942, ông đã phải thừa nhận rằng: "(đây là) thảm họa tồi tệ nhất và cuộc đầu hàng lớn nhất trong lịch sử quân sự Anh quốc". Tin xấu lại ập đến vào ngày 11 tháng 2 sau khi Kriegsmarine thực hiện thành công cuộc "Vượt Kênh" qua mắt Hạm đội Anh. Những sự biến này đã có tác động hết sức lớn đối với nhuệ khí của Churchill.

Qua đời

Năm 1963, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy đã trao tặng giải Công Dân Danh Dự Hoa Kỳ cho Churchill. Vì già yếu, Churchill không dự được buổi lễ ở Nhà Trắng, con và cháu ông thay mặt nhận giải.

Churchill sống trong âm thầm những năm cuối cuộc đời. Ông và người con trai (Randolph Churchill) không hàn gắn được mối liên hệ khúc mắc giữa hai người. Con gái trưởng là Diana tự vẫn vào mùa thu 1963; con gái thứ Sarah ngày càng nghiện rượu hơn. Trong lễ đại thọ 90 tuổi của ông vào tháng 11 năm 1964, ông đứng trước cửa sổ nhà số 28 Cửa Hyde Park (Luân Đôn) cho phóng viên chụp ảnh. Ông trông già nua và thiểu não.

Ngày 15 tháng 1 năm 1965, Churchill một lần nữa bị tắc nghẽn mạch máu não và mê man. Ông mất tại tư gia chín ngày sau đó, vào lúc sau tám giờ sáng ngày Chủ Nhật 24 tháng 1 năm 1965, hưởng thọ 91 tuổi.

Gia đình và dòng họ

Hôn nhân và con cái

Churchill kết hôn với bà Clementine Hozier vào tháng 9 năm 1908. Hôn nhân của hai người họ bền vững suốt 57 năm. Churchill nhận thức rõ sự nghiệp chính trị của ông ảnh hưởng thế nào đến mối quan hệ vợ chồng. Theo nhà sử học Colville, ông có lẽ đã từng ngoại tình với Doris Castlerosse vào khoảng những năm 1930, song điều này bị bác bỏ bởi Andrew Roberts.

Người con đầu lòng của gia đình Churchill, Diana, chào đời tháng 7 năm 1909. Người con thứ hai, Randolph, chào đời tháng 5 năm 1911. Người con thứ ba, Sarah, chào đời tháng 10 năm 1914, và người con thứ tư, Marigold, chào đời tháng 11 năm 1918. Marigold qua đời vào tháng 8 năm 1921 do nhiễm trùng họng, được chôn cất tại Nghĩa trang Kensal Green. Mặc dù thi hài của bé được di dời đến sân nhà thờ Bladon vào năm 2019 cùng nơi an nghỉ của gia đình, hiện vẫn có một cột đá cenotaph tưởng niệm được dựng ở Kensal Green. Người con cuối của Churchill, Mary, chào đời ngày 15 tháng 9 năm 1922. Cùng tháng đó, gia đình Churchill mua dinh thự Chartwell và sống ở đây đến khi Winston qua đời vào năm 1965. Theo Jenkins, Churchill là một "người cha yêu thương và nhiệt tình" song đặt nặng kỳ vọng vào con cái.

Phả hệ

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Đám tang tại London, năm 1965 Thủ tướng Anh, Sir **Winston Churchill** qua đời vào ngày 24 tháng 1 năm 1965, ở tuổi 90. Đám tang của ông là đám tang cấp quốc gia đầu
**Sir Winston Leonard Spencer Churchill** (30 tháng 11 năm 187424 tháng 1 năm 1965) là một chính khách, binh sĩ và cây bút người Anh. Ông từng hai lần giữ cương vị Thủ tướng Vương
Sách Kiến thức - Bộ 4 cuốn - Danh nhân thế giới - Wilhelm Roentgen,J.k.Rowling,Karl Marx,Winston Churchill Trẻ nhỏ cũng giống như một mầm cây. Các em lớn lên trở thành những cây trái xanh
Đại tướng **John Churchill, Công tước thứ 1 xứ Marlborough, Thân vương thứ 1 xứ Mindelheim, Bá tước thứ 1 xứ Nellenburg, Thân vương của Đế quốc La Mã Thần thánh**, KG PC (26 tháng
**Anne Churchill, Bá tước phu nhân xứ Sunderland** (27 tháng 2 năm 1683 – 15 tháng 4 năm 1716), là một quan chức triều đình và quý tộc người Anh. Anne cũng từng đảm nhiệm
**Hội nghị Potsdam** được tổ chức ở Cecilienhof, cung điện của thái tử Wilhelm Hohenzollern, tại Potsdam, Brandenburg, Đức từ 17 tháng 7 đến 2 tháng 8 năm 1945. Các quốc gia tham dự hội
**Hội nghị Tehran** (tên mã **Eureka**; phiên âm tiếng Việt: **Hội nghị Tê-hê-răng**) là một cuộc họp chiến lược giữa Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô Iosif Vissarionovich
**Bảo tàng Thời chiến Churchill** (tên gọi trước năm 1948: _Cabinet War Rooms_) Bảo tàng cũng bao gồm sở hữu bộ sưu tập đồ vật khổng lồ, những câu chuyện về cuộc đời và di
Các nước thuộc [[khối Warszawa ở phía đông của Bức màn sắt được tô màu đỏ. Thành viên khối NATO về phía bên trái được tô màu xanh. Các nước trung lập về quân sự
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
Trong 17 nguyên tắc vàng trong làm việc nhóm, John C. Maxwell chia sẻ những nguyên tắc sống còn hữu ích trong mọi lĩnh vực đời sống của việc xây dựng nhóm hiệu quả như
**Công tước xứ Marlborough** (tiếng Anh: _Duke of Marlborough_) là một tước hiệu thuộc Đẳng cấp quý tộc Anh, nó được tạo ra bởi Nữ vương Anne I của Đại Anh vào năm 1702, và
**Chiến dịch Unthinkable** còn được gọi là **Chiến dịch Bất Khả Thi**, là tên gọi của 2 kế hoạch liên quan tới xung đột của Đồng minh phương Tây và Liên Xô. Cả hai đều
**Chiến dịch giải phóng Bulgaria** (5 tháng 9 - 15 tháng 9 năm 1944) là một chiến dịch quân sự do Phương diện quân Ukraina 3 (Liên Xô) dưới sự chỉ huy của nguyên soái
**_Giờ đen tối_** (tên gốc tiếng Anh: **_Darkest Hour_**) là một bộ phim chính kịch chiến tranh năm 2017 do Joe Wright đạo diễn và Anthony McCarten viết kịch bản. Phim có sự tham gia
Tập tin:1965 Events Collage.jpg|430x430px|thumb|Theo chiều kim đồng hồ từ bên trái:
**Alexei Leonov** trở thành phi hành gia đầu tiên đi bộ ngoài không gian trong **Voskhod 2**; Các thành viên của ABRI thực
**Margaret của Liên hiệp Anh** (Margaret Rose; 21 tháng 8 năm 1930 – 9 tháng 2 năm 2002) là con gái út của George VI của Liên hiệp Anh và Elizabeth Bowes-Lyon và là người
**Vyacheslav Mikhailovich Molotov** ( – 8 tháng 11 năm 1986) là một chính trị gia và nhà ngoại giao Liên Xô, một nhân vật nổi bật trong Chính phủ Liên Xô từ thập niên 1920,
Cuộc **Không chiến tại Anh Quốc** () là tên thường gọi của một cuộc không chiến dai dẳng giữa Đức Quốc xã và Anh Quốc vào mùa hè-thu năm 1940 trong Chiến tranh thế giới
**Hội nghị Yalta**, còn gọi là **Hội nghị Crimea** với tên mã **Argonaut**, diễn ra ngày từ 4 đến ngày 11 tháng 2 năm 1945, là cuộc gặp giữa nguyên thủ quốc gia của Hoa
**_Nguồn cội_** là một cuốn tiểu thuyết kinh dị, bí ẩn, năm 2017 của tác giả người Mỹ Dan Brown. và phần thứ năm trong series Robert Langdon của ông, tiếp theo của Thiên thần
**Elizabeth Angela Marguerite Bowes-Lyon** (4 tháng 8 năm 1900 – 30 tháng 3 năm 2002) là Vương hậu của Vương quốc Liên hiệp Anh và các quốc gia tự trị của Anh từ ngày 11
**Thỏa thuận Tito – Šubašić** () là kết quả của một loạt các cuộc đàm phán giữa lãnh đạo Đảng Cộng sản Nam Tư, Josip Broz Tito, và thủ tướng của chính phủ Nam Tư
**Chiến dịch Overlord**, hay **Cuộc tập trận Hornpipe**, là mật danh của **Trận Normandie,** một chiến dịch quân sự quy mô lớn của quân đội Đồng Minh tại miền Bắc nước Pháp trong Chiến tranh
**Trận chiến Đại Tây Dương** được xem là trận chiến kéo dài nhất trong lịch sử Chiến tranh thế giới thứ hai mặc dù có nhiều nhà sử học, nhà nghiên cứu hải quân của
Thống chế Anh Quốc **Bernard Law Montgomery, Tử tước Montgomery thứ 1 xứ Alamein**, còn được gọi là "Monty" (17 tháng 11 1887 - 24 tháng 3 1976) là một tướng lĩnh quân đội Anh,
430x430px|thumb ## Sự kiện ### Tháng 1 *5 tháng 1 – Liên Xô công nhận chính quyền thân Liên Xô mới của Ba Lan. *7 tháng 1 – Tướng Bernard Montgomery (của Anh) tổ chức một buổi
**Chiến tranh Trung – Nhật** (1937–1945) là một cuộc xung đột quân sự giữa Trung Hoa Dân Quốc và Đế quốc Nhật Bản. Hai thế lực đã chiến đấu với nhau ở vùng biên giới
**Sir John Randolph Leslie, Nam tước đời thứ 3** (Ireland: _Sir Seaghán Leslaigh_; ngày 24 tháng 9 năm 1885 – ngày 14 tháng 8 năm 1971), thường được gọi là **Sir Shane Leslie**, là một
**Elizabeth II của Liên hiệp Anh và Bắc Ireland** (Elizabeth Alexandra Mary; 21 tháng 4 năm 1926 – 8 tháng 9 năm 2022) là Nữ vương của Vương quốc Liên hiệp Anh, Bắc Ireland và
**Chiến dịch Barbarossa** (), còn được gọi là **Cuộc xâm lược của Đức vào Liên Xô** là mật danh của chiến dịch xâm lược Liên Xô do Quân đội Đức Quốc xã tiến hành trong
Petit Palais nhìn từ đại lộ Winston-Churchill **Petit Palais** (_Cung điện nhỏ_) hay còn gọi là **Tiểu Cung** là một công trình và bảo tàng nằm trên đại lộ Winston-Churchill thuộc quận 8 thành phố
Đại tá **Thomas Edward Lawrence**, (16 tháng 8 năm 1888 – 19 tháng 5 năm 1935), thường được gọi là **T. E. Lawrence**, là một sĩ quan Quân đội Anh nổi tiếng vì vai trò
**Timothy Sydney Robert Hardy** (sinh ngày 29 tháng 10 năm 1925 – mất ngày 3 tháng 8 năm 2017) là một diễn viên người Anh có thâm niên trong lĩnh vực sân khấu, điện ảnh
nhỏ| Các thành viên kháng chiến Hà Lan với Sư đoàn Dù 101 của Hoa Kỳ tại [[Eindhoven, tháng 9 năm 1944 ]] **Chống phát xít** là sự đối lập với các hệ tư tưởng,
**_Bóng ma Anh Quốc_** (tựa gốc tiếng Anh: **_Peaky Blinders_**) là một bộ phim chính kịch truyền hình tội phạm của Anh, được sản xuất vào năm 2013 bởi đạo diễn Steven Knight. Loạt phim
phải|nhỏ|200x200px|Ảnh chụp chung đại nguyên soái [[Tưởng Giới Thạch|Tưởng Trung Chính, tổng thống Roosevelt và thủ tướng Churchill trong khoảng thời gian diễn ra Hội nghị Cairo, vào ngày 25 tháng 11 năm 1943.]] nhỏ|200x200px|Ba
**Edward VII của Anh** (Albert Edward; 9 tháng 11 năm 1841 – 6 tháng 5 năm 1910) là Quốc vương Vương quốc Anh và các quốc gia tự trị của Anh, và Hoàng đế Ấn
Đặc trưng giai đoạn này của Liên xô là sự lãnh đạo của **Joseph Stalin**, người đang tìm cách tái định hình xã hội Xô viết với nền kinh tế kế hoạch nhiều tham vọng,
**Chiến dịch Cái Vòng** (_Операция Кольцо_) là một hoạt động quân sự chiến lược lớn của Quân đội Liên Xô chống lại Quân đội Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai đồng
**Cung điện Blenheim** (phát âm , phiên âm: "_BLEN-im_") là một nhà ở nông thôn nằm tại Woodstock, hạt Oxfordshire, Anh. Đây là chỗ cư ngụ của Công tước xứ Marlborough và là tòa nhà
**Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc** (**HĐBA**) là một trong năm cơ quan chính của Liên Hợp Quốc, có quyền đề nghị Đại Hội đồng kết nạp nước mới vào Liên Hợp Quốc, phê