Cuộc vây hãm Tấn Châu là một trong hai trận đánh ở Tấn Châu trong cuộc xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản; lần đầu tiên vào năm 1592, và lần thứ hai vào năm 1593. Quân Nhật vây hãm không thành công và đã rút lui ngay khi bị lừa bởi nguồn quân cứu viện Triều Tiên đang đến.
Mở màn
Thành Tấn Châu là một thành trì quan trọng bảo vệ đạo Toàn La. Ukita Hideie và Hosokawa Tadaoki đều đồng ý đem quân đi chiếm Tấn Châu bởi vì nếu người Nhật chiếm được thành này, một con đường mới để tiến vào Toàn La sẽ được mở ra, và họ sẽ có thể tấn công lực lượng du kích của Quách Tái Hữu ẩn náu trong khu vực. Ukita cũng đồng ý đem quân đi lấy lại Xương Nguyên, một pháo đài nhỏ dẫn đến thành Tấn Châu. Vì vậy, một đội quân 30.000 người đã được tập hợp để đi lấy lại Xương Nguyên và chiếm Tấn Châu.
Tướng quân Kim Thời Mẫn (Kim Si-min) là chỉ huy của thành Tấn Châu. Ông sinh năm 1554 ở Mokcheon (nay là Cheonan thuộc tỉnh Nam Chungcheong). Năm 1578, khi mới 25 tuổi, ông đã đỗ kỳ thi vào quân đội quốc gia và trở thành sỹ quan huấn luyện. Khi bộ tộc Nữ Chân vượt sông Duman để xâm lược Triều Tiên năm 1583, ông đã sát cánh cùng các vị tướng khác như Shin Rip và Lý Thuấn Thần đánh bại kẻ thù. Năm 1591, ông lại được mời về làm quan ở thành Tấn Châu.
Yu Sung-in là tổng chỉ huy quân đội đạo Khánh Thượng, đã đem quân của mình đến trước cửa thành Tấn Châu, yêu cầu được vào thành. Tuy nhiên, quân Nhật Bản đã đuổi theo sát đằng sau quân tiếp viện. Kim Thời Mẫn ngay lập tức từ chối yêu cầu do lo ngại quân Nhật có thể tràn vào Tấn Châu lúc quân tiếp viện vào thành, và Yu Sung-in cuối cùng đã đồng ý với lời nói của Kim Thời Mẫn. Viện binh sau đó đã bị tiêu diệt bên ngoài thành Tấn Châu.
Bao vây thành Tấn Châu
Sau khi tiêu diệt viện binh của tướng quân Yu Sung-in, quân đội Nhật Bản tiến tới chân thành Tấn Châu. Họ hy vọng một chiến thắng dễ dàng tại Tấn Châu nhưng nói chung tướng Kim Thời Mẫn đã bất chấp quân Nhật Bản và tuyên bố tử thủ với 3.800 quân lính của mình.
Kim Thời Mẫn được đào tạo bài bản và quân dân Tấn Châu tin rằng ông có thể bảo vệ thành. Kim Thời Mẫn gần đây đã mua được khoảng 170 khẩu súng hỏa mai, tương đương với hỏa lực mà quân Nhật Bản sử dụng. Bên cạnh đó, ông cũng cho những người lớn tuổi và người ốm yếu trong thành cải trang thành những người lính đang duyệt binh để phô trương sức mạnh. Ông cho dựng bù nhìn có hình dáng giống những người lính đang bắn mũi tên để quân Nhật lãng phí đạn dược tấn công chúng vì tưởng đó là kẻ thù.
Người Nhật bắt đầu dùng thang dựa vào các bức tường theo quy mô lớn. Họ cũng sử dụng một tháp bao vây để cố gắng leo lên được những tháp canh cao hơn. Quân Triều Tiên đã tung ra hàng loạt đạn đại bác, tên, và đạn súng hỏa mai. Ngạc nhiên trước sự kháng cự mãnh liệt của quân thủ thành, Hosokawa đã thử một cách tiếp cận khác bằng cách sử dụng các xạ thủ của mình để bắn hạ những người lính Triều Tiên trên các bức tường. Song vẫn không thành công bởi vì người Triều Tiên được các tấm khiên che chắn trước những viên đạn và họ đã ném đá đập vỡ thang và các trục gỗ phá thành của quân Nhật. Khi quân Triều Tiên dùng súng đại bác bắn trả, quân Nhật bắt đầu mất đi nhiều binh lính.
Vào ngày thứ năm, trong khi tướng Kim đang điều khiển bên trong thành, thì một lính Nhật đã bị đánh ngã bất ngờ đứng dậy và bắn ông. Mặc dù bị trúng đạn vào đầu, bị thương nặng và không thể tiếp tục chỉ huy lực lượng của mình, nhưng tướng quân Kim Si-min vẫn yêu cầu quân sĩ phải giữ bí mật về vết thương của mình. Một vài ngày sau, ông qua đời ở tuổi 39.
Tình thế đã trở lên tồi tệ với người Triều Tiên kể từ khi Kim Thời Mẫn bị thương và các đơn vị đồn trú đã kiệt quệ hết đạn dược. Các chỉ huy Nhật Bản sau đó thậm chí đã cho phép những người giữ thành được đầu hàng trong danh dự. Tuy nhiên, quân Triều Tiên đã tiếp tục chiến đấu. Các binh sĩ Nhật Bản vẫn không thể vượt qua các bức tường vững chắc của Tấn Châu.
Quân tiếp viện của Triều Tiên
Tướng Quách Tái Hữu, một trong các nhà lãnh đạo chính của dân quân Triều Tiên đến Tấn Châu vào ban đêm với một đội quân nhỏ, không đủ để làm mở rộng vòng vây bao quanh pháo đài. Quách đã ra lệnh cho người của mình thu hút sự chú ý bằng cách thổi tù và, phao tin đồn về một đội quân lớn đang tiến tới. Khoảng 2.500 du kích và dân quân đã kéo tới giải vây. Lúc này, các chỉ huy Nhật Bản nghĩ rằng họ đã bị vây chặt hai cánh, buộc phải từ bỏ cuộc bao vây và tháo lui.
Sau cuộc vây hãm
Dân quân Triều Tiên tới chi viện thực ra chỉ có 2.500 người, không đủ để phá vòng vây thành Tấn Châu. Tuy nhiên, sự rút lui của binh lính Nhật Bản đã khích lệ người Triều Tiên và điều lớn nhất thu được từ cuộc giải vây này là nhuệ khí của quân đội Triều Tiên đã tăng lên rất nhiều.
Sử sách Triều Tiên luôn ca ngợi tướng Kim Thời Mẫn, vị tướng đã bảo vệ đất nước bằng những chiến thuật quân sự tài ba và lòng dũng cảm kiên cường của mình. Vào năm 1711, tướng Kim được phong tặng danh hiệu cao quý Trung vũ công (Chungmugong) nhằm vinh danh những đóng góp lớn lao, tài năng quân sự và lòng trung quân ái quốc của ông.
Trận chiến đầu tiên của Tấn Châu cùng với Trận Đảo Nhàn Sơn và Trận Hạnh Châu đã được coi là ba chiến thắng quan trọng nhất của Triều Tiên trong chiến tranh năm Nhâm Thìn.
👁️
0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Cuộc vây hãm Tấn Châu** là một trong hai trận đánh ở Tấn Châu trong cuộc xâm lược Triều Tiên của Nhật Bản; lần đầu tiên vào năm 1592, và lần thứ hai vào năm
**Chiến tranh Nhật Bản – Triều Tiên**, còn gọi là **Chiến tranh Triều - Nhật** (hangul: 조일전쟁, hanja: 朝日戰爭, _Joil jeonjaeng_) hay **Chiến dịch Văn Lộc - Khánh Trường** (kanji: 文禄・慶長の役, hiragana: ぶんろく・けいちょうのえき, _Bunroku・Keichō no
thumb|gia hiệu của Gia tộc Toyotomi **Toyotomi Hideyoshi** (豊臣 秀吉, とよとみ ひでよし, Hán-Việt: _Phong Thần Tú Cát_) còn gọi là **Hashiba Hideyoshi** (羽柴 秀吉, はしば ひでよし, Hán-Việt: _Vũ Sài Tú Cát_) (26 tháng 3 năm
**Phục bích** (chữ Hán: 復辟), còn được phiên âm là **phục tích** hay **phục tịch**, nghĩa đen là "khôi phục ngôi vua" là trường hợp một quân chủ đã từ nhiệm hoặc đã bị phế
Dưới đây là danh sách ghi nhận những cuộc nhường ngôi trong lịch sử Việt Nam: ## Tự nguyện nhường ngôi ### Nhường ngôi nhưng vẫn giữ quyền nhiếp chính #Không rõ năm bao nhiêu
**Công quốc Parma**, tên gọi chính thức là **Công quốc Parma và Piacenza** (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền
**Nhà Mạc** (chữ Hán: 莫朝 / Mạc triều) là triều đại quân chủ trong lịch sử Việt Nam, bắt đầu khi Mạc Đăng Dung, sau khi dẹp được các bè phái trong cung đình, đã
Phòng trà dát vàng ở lâu đài Fushimi (Momoyama), Kyoto ở vào cuối thời Chiến quốc ở Nhật Bản, khi sự thống nhất chính trị trước khi Mạc phủ Tokugawa thành lập. Nó kéo dài
**Danh sách các trận đánh Nhật Bản** là danh sách được sắp xếp ra theo từng năm, từng thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản. ## Thời kỳ Yayoi * Hậu kỳ Thế kỷ 2:
nhỏ|Gia huy của [[Gia tộc Tokugawa]] là một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản. Ông là người sáng lập và cũng là vị Shōgun (Tướng Quân) đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa,
**Hiến Ai Vương hậu** (Hangul: 헌애왕후, Hanja: 獻哀王后; 964 – 20 tháng 1, 1029), hay **Thiên Thu Vương thái hậu** (천추왕태후, 千秋王太后), là một Vương hậu của nhà Cao Ly. Bà là vợ, đồng thời
**Danh sách các sự kiện trong lịch sử Nhật Bản** ghi lại các sự kiện chính trong lịch sử Nhật Bản theo thứ tự thời gian. ## Cổ đại ### Thời kỳ đồ đá cũ
**Władysław IV Vasa** (; ; ; hoặc _Ladislaus IV Vasa_; 9 tháng 6 năm 1595 - 20 tháng 5 năm 1648) là một hoàng tử Ba Lan của dòng họ Vasa. Ông trị vì như
**Thái Lan**, gọi ngắn là **Thái**, quốc hiệu là **Vương quốc Thái Lan**, là một quốc gia ở Đông Nam Á, phía bắc giáp Lào và Myanmar, phía đông giáp Lào và Campuchia, phía nam
**** (Hiragana: だて/いだて まさむね), là một _daimyō_ thời Azuchi–Momoyama và đầu thời Edo trong lịch sử Nhật Bản. Xuất thân là người thừa kế của gia tộc daimyō quyền lực nhiều đời tại vùng Tōhoku,
là một trận đánh nổi tiếng trong lịch sử Nhật Bản diễn ra vào ngày 21 tháng 10 năm 1600 (ngày 15 tháng thứ 9 niên hiệu _Khánh Trường_ thứ 5) tại Sekigahara, thuộc tỉnh
là một daimyo thời Sengoku, thời kỳ Azuchi-Momoyama. Ông sinh năm 1558, cha ông được cho là đã từng phục dịch cho Ōtomo Sōrin hoặc Rokkaku Yoshikata. Ông là thuộc hạ của Toyotomi Hideyoshi và
**Vương quốc Ayutthaya** (tiếng Thái: อยุธยา; phiên âm tiếng Việt: _A-dút-tha-da_; Hán-Việt: **A Du Đà Da** 阿瑜陀耶 hay **Đại Thành** 大城) là một vương quốc của người Thái tồn tại từ năm 1351 đến 1767.
**Thời kỳ Chiến quốc** là thời kỳ trong lịch sử Nhật Bản với nhiều chuyển biến xã hội lồng trong bối cảnh mưu mô chính trị và xung đột quân sự gần như là liên
là vị Tướng Quân thứ 2 của Mạc phủ Tokugawa. Ông là con trai thứ ba của Tokugawa Ieyasu, vị Tướng Quân đầu tiên của Mạc phủ Tokugawa. ## Thiếu thời Tokugawa Hidetada được phu
**Mạc Mậu Hợp** (chữ Hán: 莫茂洽, 1560 – tháng 1 năm 1593) là vị hoàng đế Đại Việt thứ năm của nhà Mạc thời Nam – Bắc triều trong lịch sử Việt Nam. Ông lên
Họ **Đồng (同)** là một họ của người Việt Nam. Biểu tượng của dòng họ Đồng tại Việt Nam ## Nguồn gốc họ Đồng Việt Nam Các triều đại phong kiến ở Việt Nam có
**Liêu Thánh Tông** (chữ Hán: 遼聖宗; 972 - 1031), tên thật theo Hán danh là **Long Tự** (隆绪) và tên Khiết Đan là **Văn Thù Nô** (文殊奴), là vị Hoàng đế thứ sáu thuộc dòng
**Trịnh – Nguyễn phân tranh** (chữ Hán: 鄭阮紛爭) là thời kỳ phân chia lãnh thổ giữa chế độ "vua Lê chúa Trịnh" ở phía Bắc sông Gianh (Đàng Ngoài) và chúa Nguyễn cai trị ở
**Hoàng Thái Cực** (chữ Hán: 皇太極; , 28 tháng 11, 1592 – 21 tháng 9 năm 1643), là vị Đại hãn thứ hai của nhà Hậu Kim, và là Hoàng đế sáng lập triều đại
**Elizabeth I của Anh** (tiếng Anh: _Elizabeth I of England;_ tiếng Pháp: _Élisabeth Ire d'Angleterre;_ tiếng Tây Ban Nha: _Isabel I de Inglaterra;_ 7 tháng 9 năm 153324 tháng 3 năm 1603) là Nữ vương
**Triều Tiên Tuyên Tổ** (chữ Hán: 朝鮮宣祖; Hangul: 조선 선조; 26 tháng 11, 1552 - 16 tháng 3 năm 1608), là vị quốc vương thứ 14 của nhà Triều Tiên. Ông trị vì từ năm
**Lịch sử quân sự Nhật Bản** mô tả cuộc chiến tranh phong kiến kéo dài nhằm tiến tới việc ổn định trong nước, sau đó cùng với việc viễn chinh ra bên ngoài cho tới
upright|Một kỵ sĩ trên lưng ngựa nhỏ|phải|Một con ngựa kéo hạng nặng, có thể dùng để tải pháo **Ngựa** là động vật được sử dụng nhiều nhất trong cuộc chiến, nhất là chiến tranh thời
nhỏ|phải|Một [[chiến binh Mông Cổ trên lưng ngựa, ngựa Mông Cổ là biểu tượng cho những con ngựa chiến ở vùng Đông Á trong thời Trung Cổ]] nhỏ|phải|Một kỵ xạ Nhật Bản đang phi nước
**Heidelberg** là một thành phố lớn nằm cạnh sông Neckar ở tây-nam của nước Đức trong bang Baden-Württemberg. Thành phố nổi tiếng thế giới vì có phế tích Lâu đài Heidelberg và khu phố cổ
**Mirza Shahab-ud-Din Baig Muhammad Khan Khurram** (5 tháng 1 năm 1592 – 22 tháng 1 năm 1666), còn được gọi là **Shah Jahan I** (; ), là Hoàng đế Mogul thứ 5, trị vì từ
**Edward II của Anh** (25 tháng 4, 1284 – 21 tháng 9, 1327), còn gọi là **Edward xứ Caernarfon**, là Vua của Anh từ 1307 cho đến khi bị lật đổ vào tháng 1 năm
**Chiến tranh Ayutthaya – Myanmar** là cuộc chiến tranh giữa hai nước láng giềng ở Đông Nam Á. Vương quốc Ayutthaya là một trong những nhà nước tiền thân của Thái Lan hiện đại. Chiến
**Hải quân Đế quốc Nhật Bản** (kanji cổ: 大日本帝國海軍, kanji mới: 大日本帝国海軍, romaji: _Dai-Nippon Teikoku Kaigun_, phiên âm Hán-Việt: **_Đại Nhật Bản Đế quốc Hải quân_**), tên chính thức **Hải quân Đế quốc Đại Nhật
nhỏ|phải|Thai tạng giới [[Mạn-đà-la ()]] nhỏ|phải|Vòng Pháp luân **Nghệ thuật Phật giáo** là sự phản ánh các khái niệm trong đạo Phật dưới các hình thức nghệ thuật khác nhau – nhất là các lĩnh
Biến động biên giới Việt - Trung, 1428 - 1895. **Vấn đề biên giới Việt-Trung thời Lê trung hưng** phản ánh những hoạt động quân sự - ngoại giao giữa nhà Lê trung hưng ở
Kỵ binh Pháp ngày 8 tháng 5 năm [[2005]] **Kỵ binh** (tiếng Anh: Cavalry) là binh lính giáp chiến trên lưng ngựa. Từ này thường không dùng cho lính cưỡi các loại thú chuyên chở
nhỏ|Diễu binh ở phủ chúa Trịnh **Quân đội nhà Lê trung hưng** là tổng thể tổ chức quân sự của triều đình nhà Hậu Lê bắt đầu từ vua Lê Trang Tông đến hết triều
**Oppède** là một xã trong tỉnh Vaucluse thuộc vùng Provence-Alpes-Côte d’Azur ở đông nam nước Pháp. Xã này nằm ở khu vực có độ cao trung bình 300 mét trên mực nước biển. ## Địa
**Lý Thuấn Thần** (Hanja: , Hangul: 이순신, Romanja: **Yi Sun-sin**, 8 tháng 3 năm 1545 – 19 tháng 11 năm 1598) là nhà quân sự, đô đốc thủy quân, danh tướng kháng Nhật của nhà
**Chúa Trịnh** (chữ Nôm: 主鄭, chữ Hán: 鄭王 / **Trịnh vương**; 1545 – 1787) là một vương tộc phong kiến kiểm soát quyền lực lãnh thổ Đàng Ngoài suốt thời Lê Trung hưng. Về danh
**Minh Thần Tông** (chữ Hán: 明神宗, bính âm: _Ming Shenzong_, 4 tháng 9, 1563 – 18 tháng 8 năm 1620) hay **Vạn Lịch Đế** (萬曆帝), là vị hoàng đế thứ 14 của nhà Minh trong
**Trịnh Tùng** (chữ Hán: 鄭松, 19 tháng 12 năm 1550 – 17 tháng 7 năm 1623), thụy hiệu **Thành Tổ Triết Vương** (成祖哲王), là vị chúa chính thức đầu tiên của dòng họ Trịnh dưới
**Lịch sử Việt Nam** nếu tính từ lúc có mặt con người sinh sống thì đã có hàng vạn năm trước Công Nguyên, còn tính từ khi cơ cấu nhà nước được hình thành thì
**Nguyễn Bỉnh Khiêm** (chữ Hán: 阮秉謙; 13 tháng 5 năm 1491 – 28 tháng 11 năm 1585), tên huý là **Văn Đạt** (文達), tự là **Hanh Phủ** (亨甫), hiệu là **Bạch Vân am cư sĩ**
**Nhà Lê trung hưng** (chữ Nôm: 茹黎中興, chữ Hán: 黎中興朝, Hán Việt: _Lê trung hưng triều_, 1533–1789) là giai đoạn sau của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê (giai đoạn đầu là nhà Lê
Dân cư sinh sống có tổ chức trên lãnh thổ Việt Nam xuất hiện tương đối sớm so với trên thế giới, tuy nhiên việc hình thành nhà nước chuyên chế lại tương đối muộn
**Lê Thế Tông** (chữ Hán: 黎世宗 1567 - 12 tháng 10 năm 1599), tên húy là **Lê Duy Đàm** (黎維潭), là vị hoàng đế thứ tư của Hoàng triều Lê - giai đoạn Trung hưng
**Cô dâu 8 tuổi** (tiếng Hindi: बालिका वधू, chuyển tự: Balika Vadhu) là một bộ phim truyện truyền hình Ấn Độ, được phát sóng lần đầu vào ngày 21 tháng 7 năm 2008 trên kênh