✨Công quốc Parma

Công quốc Parma

Công quốc Parma, tên gọi chính thức là Công quốc Parma và Piacenza (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền Bắc nước Ý, trong khu vực thuộc vùng Emilia-Romagna hiện nay.

Ban đầu là một công quốc nằm dưới quyền cai trị của Nhà Farnese sau khi Giáo hoàng Phaolô III biến nó thành công quốc cha truyền con nối cho chính con trai của ông, Pier Luigi Farnese, nó được cai trị bởi triều đại Farnese cho đến năm 1731, khi công tước cuối cùng của nó là Antonio Farnese, qua đời mà không có người thừa kế trực tiếp.

Công quốc bị xâm lược bởi Napoléon Bonaparte và sáp nhập toàn bộ lãnh thổ vào Pháp, chủ quyền của nó được khôi phục vào năm 1814 sau thất bại của Napoléon. Vợ thứ hai của Napoléon là Maria Ludovica của Áo (Maria Luigia của Parma), sau đó đã cai trị với tư cách là nữ công tước của nó cho đến khi bà qua đời. Nhà Bourbon được khôi phục lại quyền cai trị Parma vào năm 1847, và vào năm 1859, công quốc chính thức bị bãi bỏ khi nó được Nhà Savoia hợp nhất vào lãnh thổ của mình và sau này là một phần của Vương quốc Ý thống nhất.

Alessandro qua đời ở xa Parma vào ngày 3 tháng 12 năm 1592 vì hoại thư do một viên đạn súng hỏa mai gây ra trong Cuộc vây hãm Can de Bec, một năm trước khi qua đời, ông đã ra lệnh xây dựng pháo đài của Citadel với mục đích khẳng định quyền lực của gia tộc nhưng cũng để cung cấp việc làm cho lực lượng lao động gồm 2.500 người, phần lớn là người nghèo. Ranuccio I, đam mê nghệ thuật và âm nhạc, đã biến triều đình công tước trở thành nơi đầu tiên ở Ý có nghệ thuật âm nhạc. Trong thời kỳ này, thành phố đã được làm phong phú thêm các di tích độc đáo, chẳng hạn như Palazzo della Pilotta và Teatro Farnese, luật pháp hiện đại đã được thông qua, khiến Parma trở thành một trung tâm xuất sắc cả về lối sống lẫn hình mẫu kiến trúc, nâng tầm nó như một trung tâm văn hóa ngang hàng với các thủ đô quan trọng khác ở châu Âu thời bấy giờ. Chính quyền Parma đã thực hiện lệnh hành quyết công khai hơn 100 công dân Parma bị buộc tội âm mưu chống lại ông. Năm 1628, sau cái chết của Ranuccio I, công quốc được truyền lại cho cậu con trai mới 16 tuổi của ông là Odoardo, vào ngày 11 tháng 10 cùng năm ông đã kết hôn với Margherita de' Medici, lúc đó mới 15 tuổi ở Florence, con gái của Cosimo II de' Medici, Đại công tước xứ Toscana.

Đây là những năm khó khăn đối với công quốc, ngoài trận dịch khủng khiếp năm 1630 khiến nhiều người thiệt mạng, vị công tước mới còn duy trì một đội quân gồm 6.000 bộ binh và để tài trợ cho đội quân này, ông đã buộc thần dân của mình phải sống đói khổ, bản thân triều đình thì mắc nợ các chủ ngân hàng và thương gia. Bất chấp chi phí phát sinh cao, chiến dịch đầu tiên của ông lại mang tính tiêu cực: Piacenza bị quân Tây Ban Nha chiếm đóng, quân của ông bị Francesco I d'Este, Công tước xứ Modena, đánh bại trên lãnh thổ Parma, và Công tước Odoardo buộc phải ký một hiệp ước hòa bình với Tây Ban Nha, theo đó, một khi liên minh với Pháp tan rã, ông sẽ sơ tán Piacenza.

Khi ông qua đời ở Piacenza vào ngày 11 tháng 9 năm 1646 ở tuổi 34, công quốc được chuyển cho con trai ông là Ranuccio II và trong 2 năm quyền nhiếp chính được đảm bảo bởi vợ ông là Margherita de' Medici và chú của ông là Hồng y Francesco Maria Farnese, cho đến khi Ranuccio II được 18 tuổi. Năm 1691, Công quốc Parma bị quân đội Đế quốc La Mã Thần thánh xâm lược và bị cướp bóc bởi 4.000 binh lính. Ranuccio II đã thực hiện nhiều chính sách để cải thiện cuộc sống của thần dân, nhưng sự tương phản giữa cuộc sống phóng túng của triều đình và kho bạc cạn kiệt, công tước buộc phải đánh thuế mọi thứ, tránh động đến thu nhập của giáo hội. Trong thời gian trị vì của mình, Ranuccio II đã mua những bức tranh và tập sách quý giá, ông đã chuyển hầu hết các tác phẩm thuộc bộ sưu tập gia đình được bảo tồn trong các dinh thự ở Roma đến Parma và vào năm 1688, Nhà hát Công tước mới được khánh thành. Ranuccio II có một người con trai sẽ là người kế vị ông trong tương lai, đó là Công tử Odoardo, tuy nhiên, người này đã qua đời trước cha mình và do đó chưa bao giờ cai trị công quốc.

Ba năm trước khi qua đời, nhờ sự trung gian của đại sứ Bá tước Fabio Perletti, Công tử Odoardo đã kết hôn với Nữ bá tước Dorothea Sophie xứ Neuburg, người có với ông 2 người con, gồm có: Alessandro, chết khi mới 8 tháng tuổi và Elisabeth Farnese. Vào ngày 11 tháng 12 năm 1694, sau cái chết đột ngột của Ranuccio II, công quốc sau đó được chuyển giao cho người con trai thứ hai mới 16 tuổi là Francesco, người đã kết hôn với góa phụ của anh trai mình là Dorothea.

Triều đại của Francesco Farnese

thumb|left|Parma đầu thế kỷ 18.

Những hành động kịp thời của Công tước Francesco Farnese đã hoàn toàn đưa triều đại Farnese trở lại trung tâm của nền chính trị. Khi ông lên ngôi, tình hình tài chính của công quốc rất tồi tệ, để cố gắng hàn gắn nó, ông đã cắt giảm mọi chi phí không cần thiết của triều đình bằng cách sa thải hầu hết người hầu, nhạc sĩ, kẻ pha trò và người lùn. Ông cũng bãi bỏ các buổi biểu diễn, tiệc tùng và tiệc chiêu đãi. Một công trình thủy lực được xây dựng để bảo vệ thành phố Piacenza khỏi sự xói mòn của sông Po, việc mở rộng Đại học Parma và Collegio dei Nobili được ưa chuộng, khuyến khích nghiên cứu luật công, lịch sử, ngôn ngữ và địa lý. Các nghệ sĩ, nhà văn, nhạc sĩ và nhà viết kịch được hưởng sự bảo vệ của triều đình. Năm 1712, công trình cải tạo Cung điện Công tước Colorno bắt đầu và hoàn thành vào năm 1730. Năm 1714, công quốc đạt được thành công ngoại giao quan trọng khi Francesco, nhờ văn phòng đại sứ của ông ở Tây Ban Nha là Giulio Alberoni, đã có thể gả cháu gái Elisabeth Farnese của mình cho Vua Felipe V của Tây Ban Nha, sau khi vợ của vị vua này qua đời 1 năm trước đó.

Nhà Farnese tuyệt tự và Nhà Bourbon-Parma kế vị (1748 - 1801)

Vì thiếu người thừa kế nam nên Elisabeth Farnese, cháu gái của Công tước Antonio Farnese, được tuyên bố là nữ thừa kế của Nhà Farnese. Bà nhận được nhiều lời cầu hôn từ những người thừa kế nam của nhiều công quốc khác, cuối cùng bà đã kết hôn vào năm 1714 với Vua Felipe V của Tây Ban Nha. Sau cái chết của Công tước Antonio vào năm 1731, Felipe V khẳng định các quyền mà vợ ông có đối với các công quốc theo các thỏa thuận được ký trong Hiệp ước Viên năm 1725 và Hiệp ước Seville năm 1729, và ông tuyên bố cả hai quyền lợi cho Nhà Bourbon Tây Ban Nha. Do đó, Công quốc sẽ được thừa kế bởi con trai đầu lòng của ông với Elisabeth là Vương tử Carlos, người trị vì với tư cách là Công tước Charles I xứ Parma và Piacenza. Ông cai trị các vùng lãnh thổ của mình trong 4 năm cho đến khi kết thúc Chiến tranh Kế vị Ba Lan, khi đó, theo những gì đã được xác lập trong Hiệp ước Viên (1738), ông đã bàn giao cả hai công quốc cho Nhà Habsburg để đổi lấy Vương quốc Napoli và Vương quốc Sicilia.

Nhà Habsburg chỉ cai trị cho đến khi kết thúc Chiến tranh Kế vị Áo vào năm 1748, hiệp ước hòa bình cuối cùng của họ là Hiệp ước Aix-la-Chapelle, đã nhượng lại công quốc cho Nhà Bourbon Tây Ban Nha dưới danh nghĩa Vương tử Philip, em trai của Vương tử Carlos sẽ tiếp nhận ngai vị công tước Parma và chính ông đã trở thành người sáng lập ra Nhà Bourbon-Parma, trị vì một Công quốc Parma, Piacenza và Guastalla mở rộng (tiếng Ý: Ducato di Parma, Piacenza e Guastalla), những người cai trị Nhà Gonzaga láng giềng của Công quốc Guastalla đã tuyệt tự vào năm 1746 .

Năm 1796, công quốc bị quân Pháp dưới sự chỉ huy của Napoléon Bonaparte chiếm đóng, tình hình chính trị trong nước trở nên vô cùng rối ren. Công tước đời thứ 2 là Ferdinand duy trì ngai vàng của mình dưới thời các thống đốc quân sự Pháp cho đến Hiệp ước Aranjuez năm 1801, khi một thỏa thuận chung giữa Nhà Bourbon và Napoléon chính thức quyết định việc nhượng lại công quốc cho Pháp để đổi lấy Đại công quốc Toscana, nhưng Công tước vẫn ở Parma cho đến khi ông qua đời vào năm 1802.

Thời kỳ Napoleon (1796 - 1814)

Napoléon Bonaparte vẫn chưa quyết định về tương lai của công quốc Parma, ông muốn lôi kéo tất cả những nhà cai trị Bourbon trong các cuộc chiến tranh châu Âu trở thành đồng minh của mình. Ngay cả khi luật pháp và quản lý của Pháp dần dần được áp dụng, việc sáp nhập chính thức vào Đệ nhất Đế chế Pháp chỉ được tuyên bố vào năm 1808 sau khi bùng nổ cuộc xung đột chống lại Tây Ban Nha. Công quốc đã được cải tổ thành một tỉnh của Pháp, với tên gọi là tỉnh Taro.

Những thập kỷ cuối cùng của công quốc (1814 đến 1860)

Năm 1814, công quốc được trao cho vợ của Napoléon là Maria Ludovica của Áo, với tên gọi theo tiếng Ý là Maria-Luigia, và theo quyết định của Đại hội Viên, bà sẽ cai trị Parma cho đến khi qua đời. Sau khi bà qua đời vào năm 1847, Công quốc được khôi phục lại cho Nhà Bourbon-Parma, gia tộc từng cai trị Công quốc Lucca nhỏ bé. Guastalla được nhượng lại cho Công quốc Modena và Reggio. Nhà Bourbon cai trị cho đến năm 1859, khi họ bị lật đổ bởi một cuộc cách mạng sau chiến thắng của Pháp và Sardinia trong cuộc chiến chống Áo (được gọi là Chiến tranh Áo ở Pháp và Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ hai).

Vào tháng 12 năm 1859, Công quốc Parma và Piacenza được kết hợp với Đại công quốc Toscana và Công quốc Modena và Reggio để thành lập các Tỉnh thống nhất của miền Trung Ý. Vào tháng 3 năm 1860, sau một cuộc trưng cầu dân ý, lãnh thổ này sáp nhập với Vương quốc Sardinia, đến năm 1861 đổi tên thành Vương quốc Ý.

Quốc kỳ và quốc huy trong lịch sử

Flag of the Duchy of Parma.svg|**1545-1731**
_(Farnese)_ File:State Flag of the Duchy of Parma, Piacenza and Guastalla (1815-1847).svg|**1815-1847**
(_Habsburg-Lorraine_) File:State Flag of the Duchy of Parma, Piacenza and Guastalla (1848-1849).svg|**1848-1849**
(_Bourbon-Parma_) File:State Flag of the Duchy of Parma, Piacenza and Guastalla (1850-1851).svg|**1850-1851**
(_Bourbon-Parma_) File:Flag of the Duchy of Parma (1851-1859).svg|**1851-1859**
(_Bourbon-Parma_) File:Civil Ensign of the Duchy of Parma (1851-1859).svg|_Civil ensign_
**1851-1859**
(_Bourbon-Parma_)
File:Coat of Arms of the Duke Octavius Farnese (1547-1586).svg|alt=|**1545-1586**
(_Farnese_) File:Coat of Arms of the Duke Ranuncius Farnese (1600-1622).svg|alt=|**1586-1731**
(_Farnese_) File:Ducal Coat of Arms of Parma (1748-1802).svg|**1748-1802** File:Coat of arms of the Duchy of Parma under Maria Luigia of Austria.svg|**1814-1847**
(_Habsburg-Lorraine_) File:Coat of arms of the House of Bourbon-Parma.svg|**1847-1860**
(_Bourbon-Parma_)
👁️ 0 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Công quốc Parma**, tên gọi chính thức là **Công quốc Parma và Piacenza** (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền
**Công quốc Lucca** là một quốc gia nhỏ của Ý tồn tại từ năm 1815 đến năm 1847. Thủ đô là thành phố Lucca. Đến Đại hội Vienna năm 1815, Công quốc quay trở lại
thumb|Chân dung Công tước và Công tước phu nhân xứ [[Scania năm 1905]] **Công quốc** (, , ), hay **lãnh địa công tước** (), là lãnh thổ quốc gia có chủ quyền do một công
**Công quốc Castro** (tiếng Ý: _Ducato di Castro_; tiếng Anh: _Duchy of Castro_) là một thái ấp ở miền trung Bán đảo Ý được thành lập vào năm 1537 từ một dải đất nhỏ mà
thumb|Gia huy của Vương tộc Borbone-Parma **Vương tộc Borbone-Parma** (tiếng Ý: _Casa di Borbone di Parma_; tiếng Tây Ban Nha: _Casa de Borbón-Parma_; tiếng Pháp: _Maison de Bourbon-Parme_; tiếng Anh: _House of Bourbon-Parma_) là một
**Đại công quốc Toscana** (, ) là một nhà nước quân chủ trên Bán đảo Ý ra đời thay cho Cộng hòa Florence. Nó tồn tại từ năm 1569 đến năm 1859, với một số
**Công quốc Milano** (tiếng Ý: _Ducato di Milano_; tiếng Lombard: _Ducaa de Milan_) là một nhà nước ở Bắc Ý, được thành lập vào năm 1395 bởi Gian Galeazzo Visconti, khi đó là lãnh chúa
**Công quốc Firenze** () là lãnh địa của thân vương có trung tâm là thành phố Firenze vùng Toscana nước Ý. Công quốc được thành lập sau khi Hoàng đế Charles V khôi phục quyền
**Công tước xứ Parma và Piacenza** (tiếng Ý: _duca di Parma e Piacenza_; tiếng Anh: _Duke of Parma and Piacenza_; ) là người cai trị Công quốc Parma và Piacenza, một quốc gia lịch sử
**Filippo I xứ Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _Felipe_, tiếng Ý: _Filippo_; 15 tháng 03 năm 1720 - 18 tháng 07 năm 1765) là vị Công tước xứ Parma đầu tiên của Nhà Bourbon-Parma. Ông
**Nhà Farnese** (, also , ) là một hoàng tộc có ảnh hưởng ở Bán đảo Ý thời Phục hưng. Các nhà cai trị của Công quốc Parma và Công quốc Castro đều có nguồn
**Carlo Ludovico Ferdinando di Borbone-Parma** (22 tháng 12 năm 1799 – 16 tháng 4 năm 1883), còn được viết là **Charles-Louis** theo tiếng Pháp hoặc **Carlos Luis** theo tiếng Tây Ban Nha, là Vua của
**Vương quốc Etruria** (; tiếng Ý: _Regno di Etruria_) là một vương quốc nằm trên bán đảo Ý, tồn tại từ năm 1801 đến năm 1807, chiếm phần lớn lãnh thổ của vùng Toscana hiện
**Pier Luigi Farnese** (19 tháng 11 năm 1503 - 10 tháng 09 năm 1547) là Công tước đầu tiên của xứ Castro (1537 - 1545) và Công tước đầu tiên của xứ Parma và Piacenza
**Hiệp ước Aranjuez (1801)** (tiếng Pháp: _Traité d'Aranjuez_) được ký kết vào ngày 21 tháng 3 năm 1801 giữa Đệ Nhất Cộng hòa Pháp và Vương quốc Tây Ban Nha. Hiệp ước này xác nhận
**Vương quốc Sicilia** (tiếng La Tinh: _Regnum Siciliae_; tiếng Ý: _Regno di Sicilia_; tiếng Sicilia: _Regnu di Sicilia_) là một nhà nước tồn tại ở phía Nam Bán đảo Ý và trong một thời gian
**Vương quốc Lombardo–Veneto** (, ; ) là một vùng đất cấu thành (Lãnh thổ vương quyền) nên Đế quốc Áo, ra đời từ năm 1815 đến năm 1866. Nó được thành lập vào năm 1815
**María Luisa Josefina của Tây Ban Nha** (, 6 tháng 7 năm 1782 – 13 tháng 3 năm 1824) là _Infanta_ Tây Ban Nha, con gái của Carlos IV của Tây Ban Nha và María
**Elisabetta Farnese** hay **Elisabetta xứ Parma** (tiếng Ý: _Elisabetta Farnese_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Farnesio_; 25 tháng 10 năm 1692 - 11 tháng 7 năm 1766) là vợ thứ 2 của Vua Felipe V,
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**María Teresa của Borbón-Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa de Borbón-Parma_, tiếng Pháp: _Marie-Thérèse de Bourbon-Parme_; 28 tháng 7 năm 1933–26 tháng 3 năm 2020) là một nhà hoạt động chính trị, học giả
**Zita xứ Parma** (_Zita Maria delle Grazie Adelgonda Micaela Raffaela Gabriella Giuseppina Antonia Luisa Agnese_; 9 tháng 5 năm 1892 - 14 tháng 3 năm 1989) là vợ của Karl I, Hoàng đế cuối cùng
**María Luisa của Parma** (Luisa Maria Teresa Anna; 9 tháng 12 năm 1751 – 2 tháng 1 năm 1819) là vợ của Carlos IV của Tây Ban Nha. Mối quan hệ của María Luisa với
thumb|Bản đồ đế quốc La Mã Thần Thánh dưới triều Hoàng đế [[Karl IV của Thánh chế La Mã|Karl IV]] **Đế quốc La Mã Thần Thánh** (tiếng Latinh: _Sacrum Romanum Imperium_; tiếng Đức: _Heiliges Römisches
**Vương quốc Napoli** (tiếng La Tinh: _Regnum Neapolitanum_; tiếng Ý: _Regno di Napoli_; tiếng Napoli: _Regno 'e Napule_), còn được gọi là **Vương quốc Sicily**, là một nhà nước cai trị một phần Bán đảo
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Louise Élisabeth của Pháp** (Marie Louise-Élisabeth; ; ; ; 14 tháng 8 năm 1727 – 6 tháng 12 năm 1759) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (_Con gái nước Pháp_). Louise Élisabeth
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
**Maria Ludovica của Áo** (12 tháng 12, năm 1791 - 17 tháng 12, năm 1847), sinh ra là một Nữ Đại vương công Áo, năm 1810 bà trở thành vợ của Hoàng đế Napoleon I
**Ludovico I của Etruria** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis I de Etruria_;tiếng Pháp: _Luis I d'Étrurie_; 5 tháng 7 năm 1773 – 27 tháng 5 năm 1803) là vị vua đầu tiên trong hai vị
**Chiến tranh Kế vị Ba Lan** (tiếng Ba Lan: _Wojna o sukcesję polską_; tiếng Anh: _War of the Polish Succession_; ) là một cuộc xung đột lớn ở châu Âu, gây ra bởi cuộc nội
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Napoléon II** (_Napoléon François Joseph Charles Bonaparte_; 20 tháng 3 năm 1811 – 22 tháng 7 năm 1832) là Hoàng đế Pháp (tranh chấp) trong vài tuần vào năm 1815. Là con trai của Hoàng
**Karl VI của Thánh chế La Mã** (; 1 tháng 10 năm 1685 – 20 tháng 10 năm 1740) là Hoàng đế La Mã Thần thánh từ 1711 đến 1740. Ông đã kế thừa ngai
**Klemens Wenzel Lothar von Metternich** (15 tháng 5 năm 1773 – 11 tháng 6 năm 1859), được gọi ngắn gọn là **Klemens von Metternich** hoặc **Vương công Metternich**, là một chính khách và nhà ngoại
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Chế độ quân chủ Habsburg** () hoặc **đế quốc Habsburg** là một tên gọi không chính thức giữa các nhà sử học của các quốc gia và tỉnh được cai trị bởi các chi nhánh
**Giáo hoàng Piô IX** (Tiếng Latinh: _Pie IX_; tiếng Ý: _Pio IX_; tên khai sinh: **Giovanni Maria Mastai Ferretti**;) là vị giáo hoàng thứ 255 của Giáo hội Công giáo. Theo niên giám tòa thánh
thumb|Mạng lưới đường cao tốc ở châu Âu từ tháng 12 năm 2012. **Mạng lưới Đường bộ Quốc tế châu Âu** là một hệ thống đánh số cho các tuyến đường giao thông ở châu
**Chiến tranh Kế vị Tây Ban Nha** (1701–1714) là một cuộc xung đột chính trị quân sự ở châu Âu đầu thế kỉ XVIII, được kích nổ bởi cái chết của vị vua cuối cùng
**Đế quốc Tây Ban Nha** () là một trong những đế quốc lớn nhất thế giới và là một trong những đế quốc toàn cầu đầu tiên trên thế giới. Đạt tới thời kỳ cực
**Thống nhất nước Ý** (, ), trong tiếng Ý còn gọi là **Risorgimento** (; ) là một phong trào chính trị-xã hội diễn ra vào thế kỷ 19 và dẫn đến sự hợp nhất của
Tính đến ngày 31/5/2018, Giáo hội Công giáo bao gồm 3,160 khu vực thuộc quyền tài phán giáo hội, trong đó có 645 Tổng giáo phận và 2,236 Giáo phận, cũng như Đại diện Tông
thumb|[[Vương cung thánh đường Đền thánh Quốc gia Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Washington, D.C., là nhà thờ Kitô giáo lớn nhất ở Hoa Kỳ.]] **Giáo hội Công giáo tại Hoa Kỳ** là
**Gian Gastone de' Medici** (_Giovanni Battista Gastone_; 24 tháng 5 năm 1671 - 9 tháng 7 năm 1737) là Đại công tước thứ bảy và cũng là cuối cùng của Đại công quốc Toscana thuộc
**Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ hai**, còn gọi là **Chiến tranh Pháp-Áo**, **Chiến tranh Sardinia**, **Chiến tranh Áo-Sardinia** hay **Chiến tranh Ý 1859** (tiếng Ý: _Seconda guerra d'indipendenza Ýa_; tiếng Pháp: _Campagne
Là nơi xuất phát của Giáo hội, Công giáo ở châu Âu phát triển mạnh trên một diện tích khá rộng, bao phủ gần hết các quốc gia Latinh như Italia, Pháp, Tây Ban Nha.
**Đội tuyển bóng chày quốc gia Cuba** () là đội tuyển chính thức đại diện cho Cuba ở bộ môn bóng chày tại các cấp độ khu vực, châu lục và thế giới. Thành phần
**Louis của Pháp,** **Công tước xứ Bourgogne** (16 tháng 8 năm 1682 – 18 tháng 2 năm 1712) là con trưởng của Louis, Dauphin của Pháp và Maria Anna của Bavaria. Louis từng nhận tước
**Luis I** **của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis Felipe_; 25 tháng 8 năm 1707 – 31 tháng 8 năm 1724) là vua Tây Ban Nha tại vị từ ngày 15 tháng 1