Nhà Farnese (, also , ) là một hoàng tộc có ảnh hưởng ở Bán đảo Ý thời Phục hưng. Các nhà cai trị của Công quốc Parma và Công quốc Castro đều có nguồn gốc từ hoàng tộc này.
Các thành viên quan trọng và nổi bật nhất của Nhà Farnese bao gồm Giáo hoàng Phaolô III, người cai trị Lãnh địa Giáo hoàng trong giai đoạn từ năm 1334 - 1349, Hồng y Alessandro Farnese, Công tước Alexander Farnese (một chỉ huy quân sự và Thống đốc của Hà Lan Tây Ban Nha), và Hoàng hậu Elisabeth Farnese, người đã trở thành vợ thứ 2 của Vua Felipe V của Tây Ban Nha, các hậu duệ của bà và Felipe V sau này trở thành vua của Tây Ban Nha và vua của Vương quốc Hai Sicilia.
Một số công trình kiến trúc và cổ vật quan trọng gắn liền với gia đình Farnese, có thể thông qua việc xây dựng hoặc mua lại. Các tòa nhà bao gồm Palazzo Farnese ở Rome và Villa Farnese ở Caprarola, và các hiện vật cổ bao gồm các Viên ngọc Farnese hiện được trưng bày tại Bảo tàng khảo cổ học quốc gia, Naples.
Lịch sử nguồn gốc gia tộc
thumb|Biểu tượng của Công tước Parma
Gia tộc Farnese lần đầu tiên được nhắc đến là từ thế kỷ X, tên của gia tộc này được đặt theo tên của Castrum Farneti, một tài sản phong kiến mà họ sở hữu. Một số ý kiến khác thì cho rằng tên của gia tộc được đặt theo tên bản ngữ của loài sồi Farnia (Quercus robur) trong vùng, nhưng có người thì cho rằng cái tên này có nguồn gốc từ thời kỳ Lombard, được sử dụng để biểu thị một nhóm xã hội cụ thể.
Vào thế kỷ XII, người trong gia tộc Farnese trở thành những lãnh chúa sở hữu một số điền trang nhỏ ở các khu vực Tuscania và Orvieto, một số thành viên đã nắm giữ các vị trí chính trị trong xã hội. Một nhân vật trong gia tộc tên là Pietro đã đánh bại Ghibelline ở Tuscan vào năm 1110, và rất có thể đã chiến đấu chống lại người Italo-Norman vào năm 1134. Con trai của Pietro là Prudenzio đã được bổ nhiệm làm lãnh sự ở Orvieto và đánh bại Ghibelline ở Orvieto do Cộng hòa Siena hậu thuẫn. Một người con khác của Piertro đã bảo vệ một thị trấn, chống lại Hoàng đế Henry VI. Năm 1254, một người trong gia tộc Farnese tên là Ranuccio đã đánh bại quân của Todi và chiến đấu cho Giáo hoàng Urbanô IV chống lại Manfred, vua của Sicily. Con trai ông là Niccolò, tham gia vào quân đội của Guelph chiến đấu trong Trận Benevento.
Người nhà Farnese quay trở lại Tuscia (Nam Toscana-Bắc Lazio) vào năm 1319, khi họ chiếm được Farnese, Ischia di Castro, và các lâu đài Sala và San Savino. Năm 1354, Hồng y Albornoz đã trao lãnh thổ Valentano cho người nhà Farnese để đền đáp sự giúp đỡ của gia tộc này trong việc giúp Lãnh địa Giáo hoàng chống lại các cuộc bạo loạn trước đó. Trong thời kỳ này, Nhà Farnese đã chiến đấu chống lại Gia tộc Prefetti di Vico, đối thủ của Giáo hoàng.
Năm 1362, Pietro Farnese trở thành tổng chỉ huy của Quân đội Florentine chống lại Cộng hòa Pisa trong cuộc chiến giành Volterra. Sáu năm sau, Niccolò Farnese đã cứu Giáo hoàng Urbanô V khỏi cuộc tấn công của Giovanni di Vico, đầu tiên là ở lâu đài Viterbo và sau đó là ở Montefiascone. Chính lòng trung thành giành cho Giáo hoàng, người Nhà Farnese đã nhận được nhiều đặc quyền, nâng gia tộc lên ngang hàng với những Nam tước La Mã thời đó như Gia tộc Savelli, Orsini, Monaldeschi và Nhà Sforza của Bá quốc Santa Fiora.
Sự trỗi dậy của Nhà Farnese
thumb|[[Giáo hoàng Phaolô III với các người cháu của ông, được vẽ bởi Titian]]
Gia tộc Farnese đã gia tăng đáng kể quyền lực của mình trong suốt thế kỷ XV, khi lãnh thổ của họ mở rộng đến bờ phía Nam của Hồ Bolsena và Montalto, phần lớn nhờ vào công của Ranuccio Farnese. Ông là tổng chỉ huy các lực lượng của Cộng hòa Siena láng giềng chống lại Orsini của Pitigliano và sau khi giành chiến thắng, ông nhận được danh hiệu Thượng nghị sĩ của Rome. Con trai của ông, Gabriele Francesco, cũng theo nghiệp quân sự.
Con trai của Ranuccio là Pier Luigi đã kết hôn với một thành viên của gia tộc Caetani (đó là người nhà của Giáo hoàng Bônifaciô VIII), vì thế mà người nhà Farnese ngày càng trở nên quyền lực ở Rome. Giulia Farnese, con gái của ông là tình nhân của Giáo hoàng Alexanđê VI, chính vị giáo hoàng này đã phong tước vị Hồng y cho em trai cô là Alessandro (người sau này trở thành Giáo hoàng Phaolô III). Dưới thời Giáo hoàng Giuliô II, Hồng y Alessandro được bổ nhiệm làm thống đốc của Marca Anconetana và vào năm 1534, ông được bầu làm giáo hoàng thứ 220 với hiệu là Phaolô III. Dưới triều đại của Giáo hoàng Phaolô III, Công đồng Trentô được triệu tập và bổ nhiệm người nhà vào hàng giáo phẩm nhiều chưa từng có, điển hình như vào năm 1534, ông đã phong cháu trai 14 tuổi của mình là Alessandro làm Hồng y Phó tế (cardinal deacon).
Giáo hoàng Phaolô III qua đời vào năm 1549 và vai trò chính trị của ông trong Giáo triều được truyền cho cháu trai của ông là Alessandro, người vẫn là một Hồng y có ảnh hưởng và là người bảo trợ nghệ thuật cho đến khi ông này qua đời vào năm 1589.
Được phong Công trước và cai trị thế tục
Giáo hoàng Phaolô III đã sử dụng địa vị của mình với tư cách là người đứng đầu Nhà nước Lãnh địa Giáo hoàng để gia tăng quyền lực và tài sản cho Gia tộc Farmese. Ông trao cho người con trai ngoài gia thú của mình là Pier Luigi tước hiệu gonfaloniere. Ông cũng trao cho người con trai này thị trấn Casto với tước hiệu Công tước Castro, cấp cho người này quyền sở hữu nhiều vùng đất từ Biển Tyrrhenum đến Hồ Bolsena, cũng như khu vực Ronciglione và nhiều điền trang nhỏ khác.
Năm 1545, Giáo hoàng Phaolô III đã trao cho con trai mình vùng đất Parma nằm ở phía Bắc Bán đảo Ý thuộc quyền của Lãnh địa Giáo hoàng, chính thức lập ra Công quốc Parma và gia tộc Farnese bắt đầu truyền đời nhau cai trị lãnh thổ này. Vị Công tước thứ 2 của Parma là Ottavio Farnese đã kết hôn với Margaret, con gái của Hoàng đế La Mã Thần thánh Charles V và được trao thêm Công quốc Piacenza, ban đầu Công tước Ottavio đã lập triều đình ở đó. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng, và có lẽ để đối phó với những âm mưu chính trị của giới quý tộc Piacentine, Ottavio Farnese đã chuyển chính phủ của mình đến Parma, nơi ông cho xây dựng Palazzo della Pilotta vào năm 1583.
Năm 1580, Ranuccio I Farnese, Công tước của Parma trở thành người đứng đầu trong danh sách kế vị ngai vàng của Vương quốc Bồ Đào Nha, sau cái chết của người chú Vua Henry I, lúc đó Ranuccio mới 11 tuổi. Ranuccio là cháu ngoại lớn nhất của Edward, Công tước thứ 4 của Guimarães, con trai duy nhất của Vua Manuel I có hậu duệ hợp pháp còn sống sót vào thời điểm đó, và theo luật kế vị của Bồ Đào Nha, ông chính là người đứng đầu trong danh sách kế vị. Tuy nhiên, cha của ông là đồng minh và thậm chí là thần dân của vua Tây Ban Nha, một đối thủ của Bồ Đào Nha, nên Ranuccio đã không thể tiếp tục quyền thừa kế này.
Suy yếu và chuyển giao quyền lực
Công quốc Parma và Piacenza tiếp tục được cai trị bởi người nhà Farnese cho đến thế kỷ XVII. Tuy nhiên, thành phố Castro đã bị loại bỏ khỏi quyền sở hữu của gia tộc Farnese khi họ xung đột với gia tộc Barberini của Giáo hoàng Urbanô VIII, châm ngòi cho Cuộc chiến Castro. Năm 1649, xung đột kết thúc khi Giáo hoàng Innôcentê X cho phá huỷ thành phố.
Công quốc cuối cùng rơi vào sự kiểm soát và ảnh hưởng của Tây Ban Nha; Gia tộc mất Parma và Piacenza vào năm 1731 khi công tước cuối cùng của Nhà Farnese là Antonio Farnese, qua đời mà không có người thừa kế trực tiếp. Người thừa kế tài sản của ông, là cháu gái Elisabeth Farnese, Hoàng hậu của Tây Ban Nha, đã chuyển quyền sở hữu thành công cho các con trai của bà, Don Carlos (sau này là Vua Carlos III của Tây Ban Nha) và Filippo, người đã lập ra Nhà Bourbon-Parma.
Cây phả hệ
Thành viên đáng chú ý nhất
Huy hiệu
👁️
2 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Nhà Farnese** (, also , ) là một hoàng tộc có ảnh hưởng ở Bán đảo Ý thời Phục hưng. Các nhà cai trị của Công quốc Parma và Công quốc Castro đều có nguồn
**Elisabetta Farnese** hay **Elisabetta xứ Parma** (tiếng Ý: _Elisabetta Farnese_; tiếng Tây Ban Nha: _Isabel Farnesio_; 25 tháng 10 năm 1692 - 11 tháng 7 năm 1766) là vợ thứ 2 của Vua Felipe V,
**Carlos III của Tây Ban Nha** (Tiếng Anh: _Charles III_; Tiếng Ý và Tiếng Napoli: _Carlo Sebastiano_; Tiếng Sicilia: _Carlu Bastianu_; Sinh ngày 20/01/1716 - Mất ngày 14/12/1788) là Công tước có chủ quyền xứ
**Pier Luigi Farnese** (19 tháng 11 năm 1503 - 10 tháng 09 năm 1547) là Công tước đầu tiên của xứ Castro (1537 - 1545) và Công tước đầu tiên của xứ Parma và Piacenza
**Công quốc Parma**, tên gọi chính thức là **Công quốc Parma và Piacenza** (; ) là một công quốc lịch sử trên Bán đảo Ý, được thành lập vào năm 1545, toạ lạc ở miền
**Felipe V của Tây Ban Nha** (, ; 19 tháng 12 năm 1683 – 9 tháng 7 năm 1746) là Vua của Tây Ban Nha. Felipe lên ngôi hai lần. Lần thứ nhất từ ngày
**Công quốc Castro** (tiếng Ý: _Ducato di Castro_; tiếng Anh: _Duchy of Castro_) là một thái ấp ở miền trung Bán đảo Ý được thành lập vào năm 1537 từ một dải đất nhỏ mà
**María Teresa Antonia Rafaela của Tây Ban Nha, Trữ phi nước Pháp** (tiếng Tây Ban Nha: _María Teresa Rafaela de España_; 11 tháng 6 năm 1726 – 22 tháng 7 năm 1746), là con gái
**Công tước xứ Parma và Piacenza** (tiếng Ý: _duca di Parma e Piacenza_; tiếng Anh: _Duke of Parma and Piacenza_; ) là người cai trị Công quốc Parma và Piacenza, một quốc gia lịch sử
**Nhà Medici** ( , ) là một gia tộc ngân hàng và triều đại chính trị người Ý, lần đầu tiên củng cố quyền lực tại Cộng hòa Florence dưới thời Cosimo de' Medici, trong
**Mariana Victoria của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Mariana Victoria de España_; tiếng Bồ Đào Nha: _Mariana Vittória của Bồ Đào Nha_; 31 tháng 3 năm 1718 – 15 tháng 1 năm 1781)
**Hạm đội Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Grande y Felicísima Armada_, "Hải quân vĩ đại và may mắn nhất") là hạm đội Tây Ban Nha đã giong buồm khởi hành từ bán đảo
**Fernando VI** (tiếng Anh: Ferdinand VI, 23 tháng 9 năm 1713 – ngày 10 tháng 8 năm 1759), có biệt danh là "el Prudente" (người có học) và "el Justo" (người công chính), là vua
**María Antonia Fernanda của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _María Antonia Fernanda de España_; 17 tháng 11 năm 1729 – 19 tháng 9 năm 1785 ) là con gái út của Felipe V
**Luis I** **của Tây Ban Nha** (tiếng Tây Ban Nha: _Luis Felipe_; 25 tháng 8 năm 1707 – 31 tháng 8 năm 1724) là vua Tây Ban Nha tại vị từ ngày 15 tháng 1
**Filippo I xứ Parma** (tiếng Tây Ban Nha: _Felipe_, tiếng Ý: _Filippo_; 15 tháng 03 năm 1720 - 18 tháng 07 năm 1765) là vị Công tước xứ Parma đầu tiên của Nhà Bourbon-Parma. Ông
**Nhà Bourbon** (; ; phiên âm tiếng Việt: _Buốc-bông_) là một hoàng tộc châu Âu có nguồn gốc từ Pháp, và là một nhánh của Nhà Capet cai trị Pháp. Tổ tiên đầu tiên của
thumb|Gia huy của Vương tộc Borbone-Parma **Vương tộc Borbone-Parma** (tiếng Ý: _Casa di Borbone di Parma_; tiếng Tây Ban Nha: _Casa de Borbón-Parma_; tiếng Pháp: _Maison de Bourbon-Parme_; tiếng Anh: _House of Bourbon-Parma_) là một
**Tổng lãnh vương cung thánh đường Nhà thờ chính tòa Chúa Cứu thế Cực Thánh và Thánh Gioan Tẩy giả và Thánh sử Gioan tại Latêranô** – còn được biết đến với những tên gọi
**Louis XV** (15 tháng 2 năm 1710 – 10 tháng 5 năm 1774), biệt danh **Louis Đáng yêu**, là quân vương của Vương tộc Bourbon, giữ tước hiệu Vua của Pháp từ 1 tháng 9
**Gia đình Borgia** ( , ; tiếng Tây Ban Nha và ; ) từng là một gia đình quý tộc gốc Tây Ban Nha - Aragon, đã vuơn tới đỉnh cao quyền lực ở nước
**Maria Theresia Walburga Amalia Christina của Áo** (; 13 tháng 5, năm 1717 - 29 tháng 11, năm 1780) là một thành viên và cũng là Nữ quân vương duy nhất của Nhà Habsburg, một
**Caterina de' Medici** (; – ), hoặc **Catherine de Médicis** theo tiếng Pháp, là một nữ quý tộc người Ý và trở thành Vương hậu nước Pháp từ năm 1547 đến năm 1559, với tư
**Karl V** (tiếng Tây Ban Nha: _Carlos_; tiếng Đức: _Karl_; tiếng Hà Lan: _Karel_; tiếng Ý: _Carlo_) (24 tháng 2 năm 1500 – 21 tháng 9 năm 1558) là người đã cai trị cả Đế
nhỏ|Tự hoạ như cái đầu của [[Judith and Holofernes|Holofernes từ trần Nhà nguyện Sistine]] **Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni** Hai cuốn tiểu sử đã được xuất bản trong khi ông đang sống; một trong số
**Lịch sử Bỉ** có từ trước khi thành lập nước Bỉ hiện đại năm 1830. Lịch sử Bỉ đan xen với lịch sử các nước láng giềng là Hà Lan, Đức, Pháp và Luxembourg. Trong
**Élisabeth của Pháp** hay còn biết đến với tên gọi là **Élisabeth của Valois** hay **Isabel của Hòa Bình** (tiếng Tây Ban Nha: _Isabel de Francia_/_Isabel de Valois_/_Isabel de la Paz_; tiếng Pháp: _Élisabeth de
**Maria Luisa Gabriella của Savoia** (; 17 tháng 9 năm 1688 – 14 tháng 2 năm 1714), biệt danh là _La Savoyana_, là Vương hậu nước Tây Ban Nha thông qua cuộc hôn nhân với
**Louise Élisabeth của Pháp** (Marie Louise-Élisabeth; ; ; ; 14 tháng 8 năm 1727 – 6 tháng 12 năm 1759) là Vương nữ Pháp và là _fille de France_ (_Con gái nước Pháp_). Louise Élisabeth
**Louise Élisabeth của Orléans** (tiếng Pháp: _Louise Élisabeth d'Orléans_; tiếng Tây Ban Nha: _Luisa Isabel de Orleans_; 9 tháng 12 năm 1709 – 16 tháng 6 năm 1742) là Vương hậu Tây Ban Nha với
**Maria xứ Modena** ( hay _Maria d'Este;_ tiếng Anh: _Mary of Modena_; tên đầy đủ: _Maria Beatrice Eleonora Anna Margherita Isabella d'Este_; 5 tháng 10 [**lịch cũ:** 25 tháng 9] năm 1658 – 7 tháng
**Alcázar của Sevilla** (tiếng Tây Ban Nha: "Alcázares Reales de Sevilla" tức "Alcazars vương thất của Sevilla") là một dinh vương thất ở thành phố Sevilla, Tây Ban Nha. Dinh này gốc là một lâu
**Charles Ferdinand của Artois,** **Công tước xứ Berry** (24 tháng 1 năm 1778 – 14 tháng 2 năm 1820), là người con thứ ba và là con trai thứ của Charles, Bá tước xứ Artois
**Gian Gastone de' Medici** (_Giovanni Battista Gastone_; 24 tháng 5 năm 1671 - 9 tháng 7 năm 1737) là Đại công tước thứ bảy và cũng là cuối cùng của Đại công quốc Toscana thuộc
**Hiệp ước Viên năm 1731** (tiếng Anh: _Treaty of Vienna_; tiếng Đức: _Vertrag von Wien_; Tiếng Tây Ban Nha: _Tratado de Viena_) được ký kết vào ngày 16 tháng 3 năm 1731 giữa Vương quốc
**Giáo hoàng Phaolô III** (Tiếng Latinh: **Paulus III**, Tiếng Ý: _Paolo III_) (29 tháng 2 năm 1468 – 10 tháng 11 năm 1549) là vị Giáo hoàng thứ 220 của Giáo hội Công giáo Rôma.
nhỏ|375x375px| _Venus và Adonis_ của Tiziano, bảo tàng [[Bảo tàng Prado|Prado, Tây Ban Nha (1554). "Phiên bản Prado" ]] nhỏ|375x375px| Phòng trưng bày nghệ thuật quốc gia Washington. Ví dụ về "Phiên bản Farnese". Tác
là loạt manga Nhật Bản do Miura Kentaro lên ý tưởng và minh họa. Bối cảnh trong _Berserk_ là một thế giới kỳ ảo đen tối lấy cảm hứng từ châu Âu thời Trung Cổ.
**Alexanđê VI** (1 tháng 1 năm 1431 – 18 tháng 8 năm 1503) (Tiếng Latinh: _Alexander VI_, tiếng Tây Ban Nha: _Alejandro VI_, tiếng Catalan: _Alexandre VI_) là vị giáo hoàng thứ 214 của giáo
**Kristina của Thụy Điển** (tiếng Thụy Điển: _Drottning Kristina_; 18 tháng 12, năm 1626 - 19 tháng 4, năm 1689) là Nữ vương của Thụy Điển từ năm 1632 cho đến khi bà thoái
**Kiến trúc thời kỳ Phục hưng** là kiến trúc của thời kỳ giữa thế kỷ 14 và đầu 17 đầu ở các vùng khác nhau của châu Âu, thể hiện một sự hồi sinh và
**Antinous** hay **Antinoös** (; ; 27 tháng 11 năm 111 – trước ngày 30 tháng 10 năm 130) là một thanh niên Hy Lạp đến từ Bithynia và là người yêu của hoàng đế La
**Athena** hoặc **Athene**, còn có hiệu là **Pallas**, là một nữ thần Hy Lạp cổ đại gắn liền với trí tuệ, nghề thủ công mỹ nghệ và chiến tranh, Dòng chữ này có thể liên
thumb|Một bản đồ sao từ thế kỷ 17, bởi họa sĩ Hà Lan Frederik de Wit thumb|_Farnese Atlas_ tại Bảo tàng địa chất Quốc gia Naples **Bản đồ sao** là một bản đồ mô phỏng
Cảnh Valentano. **Valentano** là một đô thị ở tỉnh Viterbo, vùng Lazio của Italia. Đô thị này có cự ly 33 km so với tỉnh lỵ Viterbo. trái|Rocca Farnese ở Valentano. ## Cư dân nổi bật
nhỏ|Gia đình của ông [[Donald Trump|Trump.]] **Chủ nghĩa gia đình trị** ( từ chữ __ cháu trai) là việc những người có quyền lực, có vị trí lãnh đạo tạo lợi thế hay ban đặc
[[Lạp Hộ (Orion) là một chòm sao đáng chú ý, nó được nhìn thấy từ mọi nơi trên Trái Đất (nhưng không phải quanh năm).]] **Chòm sao** là một nhóm các ngôi sao được người
Ngày **2 tháng 3** là ngày thứ 61 (62 trong năm nhuận) trong lịch Gregory. Còn 304 ngày trong năm. ## Sự kiện * 986 – Louis V trở thành quốc vương của người Frank.
thumb|upright=1.2|[[Queen Elizabeth II Great Court|Great Court được phát triển vào năm 2001 và bao quanh Phòng đọc.]] **Bảo tàng Anh** là một bảo tàng công cộng dành riêng cho lịch sử loài người, nghệ thuật
**Elizabeth I của Anh** (tiếng Anh: _Elizabeth I of England;_ tiếng Pháp: _Élisabeth Ire d'Angleterre;_ tiếng Tây Ban Nha: _Isabel I de Inglaterra;_ 7 tháng 9 năm 153324 tháng 3 năm 1603) là Nữ vương