✨Cao nguyên Anatolia

Cao nguyên Anatolia

nhỏ|Cao nguyên Anatolia vào mùa đông. Cao nguyên Anatolia, hoặc gọi cao nguyên Thổ Nhĩ Kì, ở vào bán đảo Tiểu Á - phía tây của châu Á, thuộc lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì. Phía bắc giáp biển Đen, phía nam giáp Địa Trung Hải, phía đông gần kề cao nguyên Armenia ngăn cách bởi dãy núi Taurus, phía tây đến khu vực miền tây Thổ Nhĩ Kì. Diện tích khoảng 500.000 kilômét vuông. Ba mặt cao nguyên bao quanh núi, một mặt mở rộng, địa thế thấp dần từ đông sang tây, chiều cao từ 800 - 1.200 mét so với mực nước biển.

Nguồn cội lịch sử

Những dấu tích về loài người cư trú trên cao nguyên Anatolia có thể đi ngược dòng đến 7.500 năm trước. Istanbul từng là thủ đô của đế quốc Byzantine và đế quốc Ottoman, hai nền văn minh lớn này ảnh hưởng sâu đậm đối với văn hoá châu Âu.

Cao nguyên Anatolia không chỉ là trung điểm giao thông của văn minh phương đông và phương tây, sự giao lưu của nhân chủng bốn phương tại chỗ này là đặc điểm quý báu nhất của nó, người Hitti, người Phơ-ni-xi và người Hi Lạp ùn ùn di dân đến đây, tư tưởng về lưu vực Lưỡng Hà, quan điểm về Mesopotamia và tín ngưỡng về biển Aegea vì vậy mà loé sáng.

Phong trào văn hoá quy mô lớn đầu tiên trọng yếu nhất ở cao nguyên Anatolia là phong trào Hi Lạp hoá do Alexander Đại đế của Macedonia mang đến, anh hùng truyền kì chết sớm khi tuổi còn trẻ cuối cùng chết tại thành cổ Babylon thuộc lãnh thổ Iraq ngày nay, công cuộc vạn lí trường chinh của ông cuối cùng được nhìn nhận từ quan điểm lịch sử, hoàn toàn không phải tuyên dương võ thuật, đánh bại đế quốc Ba Tư mà thôi, mà là truyền bá văn hoá Hi Lạp, lưu vực Lưỡng Hà, bán đảo Anatolia và Ai Cập tất cả nằm trong phạm vi ảnh hưởng.

Sau khi Alexander Đại đế chết, đế quốc chia cắt, một vài tướng lĩnh của ông chia cắt lãnh thổ, nhưng mà phong trào Hi Lạp hoá ở cao nguyên Anatolia hoàn toàn không bị ngừng lại, trái lại ngày càng dung hợp đặc chất văn hoá của mỗi nơi mỗi vùng, cho nên đã mang đến phong cách Pergamon (chủ yếu chỉ các nhân vật có nghề nghiệp và độ tuổi khác nhau đều có thể trở thành chủ đề của việc điêu khắc nặn tượng) có tính đại biểu nhất của thời đại Hi Lạp hoá, do đó Pergamon cũng là thắng cảnh thưỡng lãm nền văn minh quan trọng tương đồng với Ephesus ở trong lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì (vật phẩm khai quật khảo cổ quan trọng nhất và đáng giá nhất ở Pergamon thì nằm ở bảo tàng Pergamon, Berlin, Đức).

Vào thời kì đế quốc La Mã, phong trào Hi Lạp hoá vẫn tiến hành như cũ ở cao nguyên Anatolia, Magnesia và Tralles chính là hạt ngọc trai của văn hoá Hi Lạp hoá ở phía tây cao nguyên Anatolia vào thời kì đế quốc La Mã. Văn hoá Hi Lạp đem trọng tâm của lịch sử đi kèm với hoạt động mậu dịch lúc đó từ biển Aegea truyền đến bán đảo Tiểu Á, Syria và Ai Cập, văn hoá Hi Lạp hoá cũng đồng thời bén rễ và dung hợp với nền văn minh phương đông khác ở những khu vực này.

Sau khi đế quốc Tây La Mã tàn phá không chịu nổi, đế quốc Byzantine Đông La Mã chọn Constantinople (nay là Istanbul) làm kinh đô, trở thành dây buộc nền văn minh châu Âu, mãi cho đến khi người Thổ Nhĩ Kì đánh thắng và chiếm được Constantinople gần như không thể bị phá huỷ, văn hoá La Mã của văn minh Hi Lạp cổ đại tiếp tục phổ biến đến cao nguyên Anatolia.

Nếu nói sự diệt vong của đế quốc Byzantine bị người Thổ Nhĩ Kì đến từ phương đông tiến công chiếm đóng, không bằng nói nó bị thế lực châu Âu áp bức xâm thực. Vào đầu thế kỉ XIII, cuối thời kì đế quốc Byzantine, cuộc thập tự quân đông chinh lần thứ tư do tổng đốc Venice Enrico Dandolo cầm quân, vì lợi ích thương mại mà đã tiến đánh Constantinople, từ sau vụ này đế quốc Byzantine suy bại không thể nổi dậy, đã đánh mất vị thế quốc gia, cũng đánh mất bốn con ngựa đồng nguyên lúc đầu nằm ở trường đua ngựa Constantinople, tổng đốc Venice bội thu toàn thắng về nhà thì cao hứng phấn khởi đem ngựa đồng treo cao ở nhà thờ San Marco, mãi đến khi quân đội của Napoléon ăn cướp ngựa đồng, về sau hoàn trả lại.

Đế quốc Ottoman nổi dậy ở cao nguyên Anatolia, lúc cường thịnh nhất cương vực của nó trải dài đến ba châu lục Âu, Á và Phi, từ Viên cho đến biển Đen, bán đảo Ả Rập và Ai Cập, tất cả đều đặt dưới sự cầm quyền của nó, sultan - người thống trị, quản lí thống nhất 1/6 lãnh thổ thế giới đã chiếm được. Tuy nhiên, Thổ Nhĩ Kì vào đầu thế kỉ XX, liền thất thủ trở thành mồi nhai của các cường quốc chủ nghĩa đế quốc, được gọi là "con bệnh Tây Á". Lãnh thổ của nó cũng bị chia cắt với số lượng nhiều, chỉ còn lại bán đảo Tiểu Á và khu vực Istanbul ở châu Âu. Dù vậy nhưng quốc phụ Thổ Nhĩ Kì Kemel kháng cự hết sức, chống lại quyết liệt, khiến cho lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì bảo toàn, nỗ lực tìm tòi dân chủ và phát triển kinh tế, hơn nữa khai phóng phong tục dân gian, là một trong những cường quốc ở Trung Đông và bán đảo Tiểu Á.

Vị trí địa lí

phải|nhỏ|Núi Erciyes cao 3.917 mét, nhìn từ [[Cappadocia.]] Anatolia giống một cây cầu lục địa nối liền châu Á và châu Âu. Cao nguyên Anatolia là một cao nguyên lớn bán khô hạn ở vào trung tâm khu vực, khắp chung quanh do đồi núi và dãy núi dài dằng dặc vây quanh. Rất nhiều nơi đều bị giới hạn về phương diện địa lí, do đó sẽ rất khó tiếp cận khu vực trù phú, cũng đã hình thành nơi tập trung dân cư dày đặc ở khu vực ven bờ biển. Vùng thấp thực sự nằm ở đường bờ biển chật hẹp biển Đen và một phần nhỏ của Địa Trung Hải. Vùng đất bằng phẳng và hơi dốc là rất hiếm, hơn nữa phần lớn nằm ở tam giác châu sông Kızılırmak, đồng bằng ven biển ở tỉnh Cilicia, cùng với đáy thung lũng sông Gediz và sông uốn khúc Büyük, ngoài ra còn có một phần của đồng bằng cao ở nội lục Anatolia, nhưng chủ yếu bao quanh ở hồ muối Tuz Gölü và bồn địa Konya Ovası.

Kết cấu địa hình của Anatolia rất phức tạp. Khối đất nhô lên và địa máng trũng thấp hợp thành một ngọn đồi trung tâm, vật trầm tích mới phủ lên trên đã hình thành địa hình gồ ghề trên bề mặt cao nguyên. Đồi núi chèn vào giữa hai dãy núi nếp gấp tập trung ở phía tây.

Địa hình địa mạo

Cao nguyên Anatolia nằm ở giữa bán đảo Tiểu Á của Tây Á, thuộc lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì. Phía bắc giáp biển Đen, phía tây giáp biển Aegea, phía nam giáp Địa Trung Hải, phía đông giáp cao nguyên Armenia.

Bán đảo Tiểu Á chủ yếu do cao nguyên Anatolia và vùng đồi núi thấp ở phía tây Thổ Nhĩ Kì hợp thành. Chiều đông - tây dài 1.000 kilômét, chiều nam - bắc rộng chừng 600 kilômét, diện tích 525.000 kilômét vuông. Rìa phía nam là dãy núi Taurus, rìa phía bắc là dãy núi Tây Karadeniz, Trung Karadeniz và Đông Karadeniz (ba dãy núi gọi chung là dãy núi Pontic), phía đông là cao nguyên Armenia. Hình thành đặc trưng địa hình ba mặt bị núi vây quanh, một mặt mở rộng, địa thế thấp dần từ đông sang tây.

Cao nguyên Anatolia, ba mặt nam, bắc, đông bị dãy núi uốn nếp của Kỉ đệ tam vây quanh. Phần giữa của cao nguyên lên xuống không bằng phẳng, chiều cao từ 800 đến 1.200 mét so với mực nước biển, bị bồn địa sụt lún và đồng bằng ép giữ hai bên; phía nam nhiều hồ, đầm lầy và bãi bùn. Phía bắc cao nguyên từ tây sang đông có dãy núi Tây Karadeniz, Trung Karadeniz và Đông Karadeniz vắt ngang dọc theo bờ biển Đen, gọi chung là dãy núi Pontic, chiều cao từ 2.000 đến 2.500 mét so với mực nước biển, càng về đông càng cao chót vót. Sườn bắc xuống thấp có dạng bậc thang, giữa các núi có thung lũng cắt sâu và bồn địa sụt lún, giữa núi và biển phần lớn phần lớn chia thành đồng bằng nhỏ hẹp, số ít có tam giác châu hơi rộng tại cửa sông. Dòng sông đổ vào biển Đen có sông Kızılırmak (dòng sông dài nhất cả nước, dài 1.350 kilômét) và sông Yeşilırmak, còn lại đều nhỏ ngắn, dòng nước chảy xiết, không thuận lợi cho vận chuyển. Phía nam cao nguyên là dãy núi Taurus, chiều cao phần lớn từ 2.000 đến 3.000 mét, đỉnh núi cao trên 3.000 mét, vách núi hoàn chỉnh, một số đoạn dốc cá biệt ép sát bờ biển, trở thành rào cản giao thông giữa duyên hải và nội lục. Vùng đất thấp duyên hải có đồng bằng Antalya, tam giác châu hạ du sông Seyhan và sông Ceyhan khá trọng yếu. Dãy núi Taurus về phía đông nam, là một mảng cao nguyên rộng lớn mà lại nhấp nhô, là bộ phận kéo dài của đài địa Ả Rập, chiều cao từ 600 đến 800 mét so với mực nước biển, là nơi bắt nguồn của sông Ơ-phơ-rát và sông Ti-gơ-rít.

Đồi núi ở hai bên nam, bắc của cao nguyên Anatolia tụ họp về phía đông thành cao nguyên Armenia, phần lớn cao nguyên từ 3.000 đến 4.000 mét, địa thế cao chót vót, nhiều núi cao và thung lũng sâu, cũng có cao nguyên dung nham phân bố rộng khắp và bồn địa thích hợp cho canh tác. Lũng sông Aras là đồng bằng cao rộng lớn có chiều cao khoảng 1.000 mét so với mực nước biển. Núi Ararat sát gần biên giới phía đông là một nón núi lửa cổ, cao 5.137 mét so với mực nước biển, là đỉnh núi cao nhất của Thổ Nhĩ Kì, đỉnh núi tích tuyết suốt năm. Hồ Van do dung nham của núi lửa ngăn cản lũng sông mà hình thành, là hồ nước mặn, diện tích 3.755 kilômét vuông, là hồ lớn nhất Thổ Nhĩ Kì, mặt hồ cao 1.640 mét so với mực nước biển, là một trong những hồ cao của thế giới. Lân cận vùng hồ từng là trung tâm văn hoá Armenia cổ đại. Phía tây cao nguyên Anatolia, các dãy núi duỗi dài về phía tây thẳng góc với bờ biển của biển Aegea. Núi thấp ở khu vực vực gần biển phân bố xen kẽ với bồn địa sụt lún, dòng sông chảy vào biển Aegea dọc theo địa hào, là tuyến đường giao thông từ nội lục thông đến duyên hải. Phía đông và phía tây của biển Marmara là vùng thấp hoặc đồng bằng, là một trong những khu nông nghiệp trọng yếu của Thổ Nhĩ Kì.

Phần trung tâm cao nguyên lên xuống không bằng phẳng, cao 800 đến 1.200 mét so với mực nước biển, bị bồn địa sụt lún và đồng bằng ép giữ hai bên. Đồi núi ở hai bên nam bắc của cao nguyên Anatolia tụ họp về phía đông thành cao nguyên Armenia, phần lớn cao nguyên từ 3.000 đến 4.000 mét, địa thế cao thẳng đứng nhiều núi, dung nham phân bố rộng khắp. Phía tây cao nguyên Anatolia, các dãy núi duỗi dài về phía tây, vuông góc với bờ biển Aegea, khu vực gần biển hình thành bờ biển kiểu ria phân bố xen kẽ với núi thấp và bồn địa sụt lún.

Đặc điểm khí hậu

Cao nguyên Anatolia thuộc khí hậu lục địa ôn đới, bị dãy núi vây quanh che chắn, khí hậu lục địa rõ rệt, múa đông rét lạnh, nhiệt độ trung bình tháng 1 của phần lớn khu vực dưới 0℃, khoảng thời gian không có sương là trên 240 ngày, đồi núi phía đông có lúc xuất hiện nhiệt độ thấp-30℃; mùa hè nóng nực khô hạn, nhiệt độ trung bình tháng 7 khoảng 25℃, có một số khu vực vượt quá 30℃; lượng giáng thủy hằng năm từ 200 - 600 milimét, cũng thuộc kiểu mưa mùa đông, mùa hè khô hạn, có cảnh quan thảo nguyên, giáng thủy ở đồi núi khá nhiều, nhiều rừng lá kim.

Tài nguyên kinh tế

Tài nguyên khoáng sản tự nhiên phong phú, các trữ lượng như crôm, thủy ngân, antimon, bor và barit đứng đầu thế giới. Trữ lượng quặng crôm hơn 60 triệu tấn, chỉ xếp sau Liên Xô, đứng thứ hai thế giới. Ngoài ra, còn có than đá, sắt, đồng, chì và mangan. Diện tích rừng khoảng 20 triệu ha, chiếm 26% diện tích lãnh thổ. Các hồ sản sinh nhiều cá và muối.

Diện tích vùng cao nguyên Anatolia - vùng trung tâm của Thổ Nhĩ Kì, chiếm 28% toàn quốc, nhân khẩu chiếm 21,8%, là khu nông nghiệp - chăn nuôi và khu công nghiệp mới nổi trọng yếu nhất, phát triển kinh tế đứng ở mức trung bình của cả nước. Ngành nông nghiệp sản xuất lương thực và củ cải ngọt là chính, ngành chăn nuôi thuộc kiểu quảng canh. Ngành công nhiệp về thực phẩm và máy móc khá phát triển, tiểu mạch gieo trồng phổ biến, sản lượng năm 1982 đạt 17 triệu tấn, chiếm 60% tổng sản lượng lương thực, chủ yếu tập trung ở miền trung và miền tây cao nguyên Anatolia và khu vực phía bắc biển Aegea (bao gồm phần châu Âu).

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
nhỏ|Cao nguyên Anatolia vào mùa đông. **Cao nguyên Anatolia**, hoặc gọi **cao nguyên Thổ Nhĩ Kì**, ở vào bán đảo Tiểu Á - phía tây của châu Á, thuộc lãnh thổ của Thổ Nhĩ Kì.
**Sơn nguyên Armenia** (; ) là sơn nguyên ở giữa và cao hơn cả trong 3 cao nguyên không giáp biển ở phía bắc khu vực Trung Đông. Phía tây của nó là cao nguyên
Bản đồ địa hình với sơn nguyên Iran nối [[Anatolia|Bán đảo Tiếu Á ở phía tây với Hindu Kush và Himalaya ở phía đông.]] Biểu đồ đơn giản chỉ ra ranh giới các mảng kiến
**Göbekli Tepe** [ɡøbe̞kli ťe̞pɛ] (Kurdish: Girê Navokê) là một ngôi đền trên đỉnh của một mỏm thuộc một dãy núi khoảng phía đông bắc thị trấn Şanlıurfa (trước kia là Urfa / Edessa) phía đông
**Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), tên chính thức là nước **Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ** ( ), thường được gọi ngắn là **Thổ**, là một quốc gia xuyên lục địa, phần lớn nằm tại Tây
**Đế quốc Byzantine**, còn được gọi là **Đế quốc Đông La Mã**, là sự tiếp nối của Đế quốc La Mã ở các tỉnh phía đông trong thời kỳ Hậu Cổ đại và Trung cổ
Ziggurat **Lưỡng Hà** (_Mesopotamia_) là một bình nguyên nằm giữa hai con sông Tigris và Euphrates thuộc Tây Á, ngày nay là miền nam của Iraq. ## Giai đoạn 4000 năm trước Công nguyên Các
**Tây Á** hoặc **Tây Nam Á** là tiểu vùng cực tây của châu Á. Khái niệm này được sử dụng hạn chế do nó trùng lặp đáng kể với Trung Đông (hay Cận Đông), khác
**Thời đại đồ đồng** là một thời kỳ trong sự phát triển của nền văn minh khi phần lớn công việc luyện kim tiên tiến (ít nhất là trong sử dụng có hệ thống và
**Dãy núi Pontic** (chữ Thổ Nhĩ Kì: Kuzey Anadolu Dağları, nghĩa là dãy núi Bắc Anatolia) là dãy núi ở phía bắc Thổ Nhĩ Kì, chạy song song với đường bờ biển của biển Đen,
**Alexandros III của Macedonia** (, ), thường được biết đến rộng rãi với cái tên **Alexander Đại đế** (tiếng Hy Lạp: _Megas Alexandros_, tiếng Latinh: _Alexander Magnus_), hay còn được một số tài liệu tiếng
**Trận Lalakaon** (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Λαλακάοντος) hoặc còn gọi là **Trận Poson** (hoặc **Porson**) (Tiếng Hy Lạp: Μάχη τοῦ Πό(ρ)σωνος)) diễn ra vào năm 863 giữa Đế quốc Đông La Mã và một
**Dãy núi Taurus** (tiếng Ả Rập,**جبال طوروس**, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Toros Dağları_) là một dãy núi nằm ở miền nam Thổ Nhĩ Kỳ, với thượng nguồn các con sông như Euphrates (tiếng Thổ Nhĩ
Bộ binh Auxilia đang vượt sông, có lẽ là [[sông Donau|sông Danube, bằng cầu phao trong Cuộc chiến Chinh phục Dacia của Hoàng đế Trajan (101 - 106 CN). Có thể nhận ra họ từ
**Trận chiến Levounion** là chiến thắng quyết định đầu tiên của Đông La Mã trong cuộc phục hưng Komnenus. Ngày 29 tháng 4 năm 1091, một lực lượng xâm lược khổng lồ người Pechenegs đã
**Chiến tranh La Mã – Parthia từ năm 58 tới năm 63**, hay còn được gọi là **Chiến tranh kế vị Armenia**, là cuộc chiến tranh xảy ra giữa Đế quốc La Mã và đế
**Chó Kangal** là một giống chó có nguồn gốc là chó săn từ thời vua Ashurbanipal của Assyrian. Chúng tên gọi khác là **Sivas Kangal Dog**, **Chó chăn cừu Anatoli** (Anatolian Shepherd Dog). Trong tiếng
**Mitanni** () là quốc gia của người Hurria ở phía bắc Lưỡng Hà vào khoảng 1500 TCN, vào thời đỉnh cao của mình trong thế kỷ 14 TCN quốc gia này bao gồm lãnh thổ
nhỏ|phải|Một con chiên cái **Cừu Mouflon** (Danh pháp khoa học: _Ovis orientalis_) là một loài động vật trong phân họ Dê cừu thuộc Họ Trâu bò. Chúng được cho là tổ tiên của tất cả
**_Euscorpius mingrelicus_** là một loài bọ cạp trước đây phân loại trong họ Chactidae. Đây là loài bọ cạp tuy có nọc độc nhưng nhìn chung khá lành tính ## Mô tả Bọ cạp Euscorpius
nhỏ|Bản đồ cho thấy Đế quốc La Mã (màu tím) và Parthia (màu vàng) cùng nhau chia sẻ [[Đế quốc Seleukos (màu xanh ở giữa) và qua đó giúp họ trở thành quốc gia mạnh
**Động đất Thổ Nhĩ Kỳ – Syria 2023**, hay **Trận động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ và Syria** (theo cách gọi của báo chí), là hai trận động đất xảy ra ở miền nam và
**Trận Yarmouk** (, còn được viết là _Yarmuk_, _Yarmuq_, hay trong tiếng Hy Lạp là _Hieromyax_, Ἱερομύαξ, hoặc _Iermouchas_, Ιερμουχάς) là một trận đánh lớn giữa quân đội Hồi giáo Rashidun với quân đội của
nhỏ|Lược đồ khu vực [[Lưỡi liềm Màu mỡ khoảng năm 7500 trước Công nguyên với các di chỉ đồ đá mới Tiền đồ gốm được tô đỏ.]] **Cách mạng Đá mới** () hay **Cách mạng
**Sennacherib** (chữ hình nêm Tân Assyria: hay , có nghĩa "Sîn thế chỗ các anh") là vua của Đế quốc Tân Assyria từ khi kế vị Sargon II năm 705TCN đến khi bị giết năm
**Chó Akbash** (tiếng Thổ Nhĩ Kỳ: _Akbaş_ nghĩa là _đầu trắng_) có nguồn gốc từ Thổ Nhĩ Kỳ, và nó chủ yếu được sử dụng như một con chó bảo vệ gia súc hoặc chó
**Xanthos** (Lycia: 𐊀𐊕𐊑𐊏𐊀 _Arñna_, , Latin: _Xanthus_, Thổ Nhĩ Kỳ: _Ksantos_) là một thành phố cổ ở Lycia, ngày nay nằm ở thị trấn Kınık, Antalya, Thổ Nhĩ Kỳ. Các di tích của Xanthos nằm
**Erzurum** (_Arzen_ thời cổ, _Karin_ trong tiếng Armenia cổ, _Theodosiupolis_ hay _Theodosiopolis_ trong thời Byzantin, ) là một thành phố tự trị (_büyük şehir_) đồng thời cũng là một tỉnh (_il_) của Thổ Nhĩ Kỳ.
**Yemen** (; ), quốc hiệu là **Cộng hòa Yemen** () là một quốc gia nằm ở Tây Á, tọa lạc ở phía nam bán đảo Ả Rập. Yemen là quốc gia lớn thứ hai trên
**Luyện kim** là một lĩnh vực của khoa học và kỹ thuật vật liệu nghiên cứu hành vi vật lý và hóa học của các nguyên tố kim loại, các hợp chất liên kim loại
**Sắt** (tiếng Anh: _Iron_) là một nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu **Fe** (từ tiếng Latinh _ferrum_), số nguyên tử bằng 26, phân nhóm VIIIB, chu kỳ 4.
**Armenia**, quốc hiệu là **Cộng hoà Armenia**, là một quốc gia nội lục ở phía nam Kavkaz thuộc khu vực Tây Nam Á, giáp Thổ Nhĩ Kỳ ở phía tây, Gruzia ở phía bắc, Azerbaijan
thumb|333x333px|Tạo hình cataphract thời kỳ [[Sassanid, hoàn toàn phủ giáp kín thân ngựa chiến và kị sĩ. Chú ý là kị sĩ mặc giáp lưới.|alt=]] **Cataphract** hay **thiết kỵ** là một loại kỵ binh nặng
**Qashqai** là một bộ tộc du mục thiểu số cuối cùng ở Iran có dân số khoảng 400.000 người vẫn sinh tồn bằng việc chăn thả gia súc trên các đồng cỏ. ## Nguồn gốc
**Đồng**( Tiếng Anh: **copper**) là nguyên tố hóa học trong bảng tuần hoàn nguyên tố có ký hiệu là **Cu** (từ tiếng Latinh: _cuprum_), có số hiệu nguyên tử bằng 29. Đồng là kim loại
**Dãy núi Kavkaz**, hoặc gọi **mạch núi Cáp-ca** (chữ Anh: Caucasus Mountains) là mạch núi phân chia giới hạn hai châu lục. Đỉnh núi cao nhất của nó là En-bơ-rút, chiều cao so với mức
**Sumer** (tiếng Akkad __; tiếng Sumer ) là một nền văn minh cổ đại và cũng để chỉ khu vực lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà (Iraq ngày nay), bao gồm vùng đồng bằng
**Vương quốc Commagene** (, ) là một vương quốc Armenia thời cổ đại trong thời kỳ Hy Lạp hóa. Vùng Commagene còn ít được biết đến trước khi bắt đầu thế kỷ 2 TCN. Tuy
Thần [[Khorsabad. Hiện vật bảo tàng Louvre.]] Vùng **Cận Đông cổ đại** là quê hương của các nền văn minh sơ khai thời cổ đại trong khu vực gần tương ứng với vùng Trung Đông
**Đế quốc Achaemenes** (; ) là một đế quốc cổ đại của người Iran được Cyrus Đại đế thành lập nên ở khu vực Tây Á, đế quốc này còn được gọi là **Đế quốc
**Userkaf** (được biết đến trong Tiếng Hy Lạp cổ đại như là **Usercherês**, **Ούσερχέρης**) là một pharaoh Ai Cập, ông là người sáng lập ra Vương triều thứ 5, ông trị vì từ 7 tới
**Hãn quốc Đột Quyết** (chữ Turk: ), hoặc gọi **Hãn quốc Turk**, là nhà nước liên minh bộ lạc lấy du mục làm ngành nghề chính, nổi lên ở phía bắc sa mạc Gobi (tức
**Hannibal**, **con trai của Hamilcar Barca**(sinh năm 247 trước Công nguyên - mất 183 trước Công nguyên), là một tướng lĩnh và nhà chiến thuật quân sự người Carthage. Chữ "Hannibal" nghĩa là "niềm vui
Dưới đây là danh sách các Di sản thế giới do UNESCO công nhận tại châu Âu. ## Albania (4) trái|nhỏ|Trung tâm lịch sử của [[Berat]] * Butrint (1992) * Trung tâm lịch sử của
[[Tập_tin:Language families of modern Asia.png|nhỏ|450x450px|ngữ hệ ở Châu Á ]] Có rất nhiều ngôn ngữ được sử dụng trên toàn Châu Á, bao gồm các ngữ hệ khác nhau. Các nhóm ngữ hệ chính được
thumb|right|upright=1.35|[[Trận Little Bighorn được biết đến với cái tên Cuộc tử thủ của Custer]] Thảm họa quân sự là một bên thất bại trong trận chiến hoặc chiến tranh dẫn đến việc bên thua cuộc
**Menkauhor Kaiu** (còn được gọi là **Ikauhor**, tiếng Hy Lạp cổ là **Mencherês**, Μεγχερῆς) là một vị pharaon của Ai Cập cổ đại thuộc thời kỳ Cổ vương quốc. Ông là vị vua thứ bảy
Trong khảo cổ học, **thời đại đồ sắt** là một giai đoạn trong phát triển của loài người, trong đó việc sử dụng các dụng cụ bằng sắt như là các công cụ và vũ
thumb|Bán cầu Đông năm 1300 TCN thumb|Cốc uống rượu, [[Nhà Thương, thế kỷ 13 TCN, Phòng tranh Arthur M. Sackler.]] Thế kỉ 13 TCN bắt đầu từ ngày đầu tiên của năm 1300 TCN và
[[Tập tin:Koppen World Map Dfc Dwc Dsc Dfd Dwd Dsd.png|thumb|right|upright=1.8|_Khí hậu cận Bắc cực_ trên thế giới ]] **Khí hậu cận Bắc Cực** (còn gọi là **khí hậu cận cực**, **khí hậu cận alpine** hoặc