✨Calci
Calci, hay còn được viết là canxi, là một nguyên tố hóa học có ký hiệu Ca và số nguyên tử 20. Là một kim loại kiềm thổ, calci có độ phản ứng cao: nó tạo thành một lớp oxide-nitride màu trắng xám khi tiếp xúc với không khí. Các tính chất vật lý và hóa học của nó gần giống với các chất tương đồng nặng hơn như là stronti và bari. Nó là nguyên tố phổ biến thứ năm trên vỏ Trái Đất, và là kim loại phổ biến thứ ba chỉ sau sắt và nhôm. Hợp chất calci phổ biến nhất trên Trái Đất là calci carbonat, có trong đá vôi và tàn tích hóa thạch của sinh vật biển trong thời kỳ đầu; nguồn calci khác bao gồm thạch cao, anhydride, huỳnh thạch và apatit. Tên của nó bắt nguồn từ tiếng Latinh calx, nghĩa là vôi – một hợp chất của calci được điều chế bằng cách nung nóng đá vôi. Mặc dù một số hợp chất calci được biết đến từ thời xa xưa, nhưng đặc tính hóa học của chúng chưa được biết đến cho đến thế kỷ 17. Calci tinh khiết được Humphry Davy cô lập năm 1808 bằng phương pháp điện phân. Các hợp chất của calci được sử dụng phổ biến ở nhiều ngành công nghiệp: trong thực phẩm và dược phẩm với vai trò bổ sung calci, là chất tẩy trắng và làm trắng trong ngành công nghiệp giấy, là chất khử trùng nước uống, và là thành phần của quá trình sản xuất xà phòng kim loại. Mặt khác, calci kim loại có ít ứng dụng hơn do tính phản ứng cao của nó. Tuy nhiên, với số lượng nhỏ, nó thường được sử dụng làm thành phần hợp kim trong sản xuất thép, và đôi khi hợp kim calci-chì được sử dụng trong việc sản xuất ắc quy.
Calci là kim loại phổ biến nhất và là nguyên tố phổ biến thứ năm trong cơ thể. Là một khoáng chất chính trong việc tạo xương, răng và vỏ sò, calci là kim loại phổ biến nhất về khối lượng có trong nhiều loài động vật. Ion đóng vai trò là một chất điện giải rất quan trọng đối với quá trình sinh lý và sinh hóa của cơ thể và tế bào: nó đóng vai trò là chất truyền tin thứ hai trong các con đường truyền tín hiệu; trong việc giải phóng chất dẫn truyền thần kinh từ neuron; trong sự co rút của tất cả các loại tế bào cơ; và là cofactor cho nhiều loại enzyme khác nhau.
Tính chất vật lý
Calci có nhiệt độ nóng cháy là 842 °C và nhiệt độ sôi là 1494 °C; cao hơn magnesi và stronti (hai kim loại kiềm thổ ở vị trí trên và dưới calci trong bảng tuần hoàn). Calci có hai thù hình: lập phương tâm mặt và lập phương tâm khối ở nhiệt độ 443 °C trở lên. Calci có tỉ trọng 1,526 g/cm³, là kim loại kiềm thổ nhẹ nhất; hai kim loại magnesi (1,74 g/cm³) và beryli (1,84 g/cm³) nặng calci hơn mặc dù chúng có số khối nhỏ hơn. Kể từ stronti trở đi, các kim loại kiềm thổ có tỷ trọng tăng theo số khối.
Calci cứng hơn chì nhưng vẫn có thể cắt được bằng dao. Mặc dù calci dẫn điện kém hơn đồng và nhôm tính theo thể tích nhưng nó lại là chất dẫn điện tốt hơn về khối lượng so với cả đồng và nhôm do calci có khối lượng riêng thấp hơn. Trong thực tế calci ít khi được sử dụng do nó rất dễ phản ứng với không khí, tuy nhiên calci được nghiên cứu làm chất dẫn điện ngoài không gian.
Tính chất hóa học
nhỏ|trái|[[Kiểm tra ngọn lửa|Kiểm tra màu ngọn lửa. Màu đỏ gạch bắt nguồn từ calci.|198x198px]]Tính chất hóa học của calci tương tự với các kim loại tiềm thổ nặng khác. Ví dụ, calci phản ứng với nước nhanh hơn magnesi và chậm hơn stronti, tạo thành calci hydroxide và khí hydro. Kim loại calci phản ứng với nước tạo khí hydro với tốc độ nhanh đến mức có thể nhận biết được, nhưng không đủ nhanh ở nhiệt độ phòng để tạo ra nhiều nhiệt, do vậy nên nó rất hữu ích trong việc sản xuất hydro ở số lượng nhỏ. Nó cũng phản ứng với oxy và nitơ trong không khí, tạo thành calci oxide và calci nitride. Ion calci khi cháy có màu cam-đỏ. Ở dạng bột, kim loại calci cháy trong không khí ở nhiệt độ cao và tạo ra muối nitride. Calci dạng khối có tính phản ứng kém hơn: nó nhanh chóng tạo thành lớp phủ hydrat hóa trong không khí ẩm, nhưng nếu độ ẩm tương đối dưới 30%, thì có thể bảo quản calci ở nhiệt độ phòng trong thời gian dài.
Ngoài oxide CaO, calci peroxide có thể điều chế bằng cách oxy hóa calci dưới oxy áp lực cao. Có bằng chứng cho thấy sự tồn tại của superoxide . Calci hydroxide là một chất kiềm mạnh, nhưng không mạnh bằng hydroxide của stronti, bari hay là các kim loại kiềm khác. Toàn bộ 4 muối halogen của calci đã được biết đến. Calci carbonat () và calci sulfat () là những khoáng chát phổ biến trên Trái Đất. Giống hnư stronti, bari, các kim loại kiềm và kim loại họ Lanthan hóa trị như europi và yterbi, calci kim loại tan trong amonia lỏng và tạo một dung dịch màu xanh lam thẫm.
trái|nhỏ|Cấu trúc của trung tâm polymer [Ca(HO)] trong calci chloride ngậm nước, minh họa cho số phối trí cao của phức calci.
Do ion calci () có kích thước lớn, ion có thể có số phối trí cao, lên tới 24 (ví dụ: ). Các phức chelat chứa oxy như EDTA và polyphosphat dễ dàng tạo phức với calci, rất hữu ích trong hóa phân tích và quy trình loại bỏ các ion calci làm mềm nước cứng. Trong trường hợp không có án ngữ không gian (trở ngại lập thể), các cation nhóm 2 nhỏ hơn có xu hướng hình thành các phức chất mạnh hơn, nhưng khi có phối tử là hợp chất vòng đa cạnh có dung lượng phối trí lớn (large polydentate macrocycle) tham gia thì xu hướng nay bị đảo ngược.
Calci nằm trong cùng nhóm với magnesi. Mặc dù hợp chất cơ-magnesi có ứng dụng nhiều trong tổng hợp hữu cơ, tuy nhiên hợp chất cơ-calci thì không như vậy do khó tổng hợp và là hợp chất rất hoạt động hóa học, tuy vậy đã nghiên cứu cho rằng đây là chất xúc tác tiềm năng. Các hợp chất cơ-calci có đặc tính tương tự các hợp chất cơ-yterbi do bán kính ion của (102 picomet) gần giống (100 picomet).
Đa số các hợp chất này chỉ có thể được điều chế ở nhiệt độ thấp; phối tử cồng kềnh thường thiên về sự ổn định. Ví dụ, để điều chế calci dicyclopentadienyl, , cần phải cho kim loại calci phản ứng trực tiếp với chính mercurocen hoặc cyclopentadien; mặt khác, việc thay thế phối tử bằng phối tử cồng kềnh hơn sẽ làm tăng độ hòa tan, độ bay hơi và độ ổn định động học của hợp chất.
Đồng vị
Calci tự nhiên có 5 đồng vị ổn định (, , , , ). Đồng vị có chu kỳ bán rã lâu đến nỗi được coi là đồng vị bền trong thực tế ( có chu kỳ bán rã khoảng 4,3 × 1019 năm). Như vậy, calci là nguyên tố đầu tiên (nhẹ nhất) có 6 đồng vị trong tự nhiên.
Bốn đồng vị tự nhiên còn lại là , , , ít gặp hơn hẳn, mỗi đồng vị chỉ chiếm dưới 1% lượng calci tự nhiên. Bốn đồng vị nhẹ chủ yếu là sản phẩm của quá trình đốt cháy oxy và đốt silic, còn hai đồng vị nặng hơn được tạo ra thông qua quá trình bắt giữ neutron. phần lớn được tạo ra trong quá trình s "nóng", vì sự hình thành của đồng vị này đòi hỏi dòng neutron cao để cho phép đồng vị có tuổi thọ ngắn là bắt giữ neutron. được tạo ra bằng cách bắt electron trong quá trình r ở siêu tân tinh loại Ia, trong đó lượng neutron dư thừa cao và entropy đủ thấp đảm bảo sự tồn tại của đồng vị. nhỏ|187x187px|Khoảng 2 gam calci-48 carbonat trị giá 500.000 USD, do The Joint Institute for Nuclear Research điều chế. và là những hạt nhân "ổn định kinh điển" đầu tiên có lượng neutron "dư thừa" lần lượt là 6 và 8. Mặc dù chứa rất nhiều neutron cho một nguyên tố nhẹ, nhưng lại rất ổn định bởi nó có tính hai-lần số Magic: nó có 20 proton và 28 neutron. Quá trình phân rã beta của thành bị cản trở do spin hạt nhân của hai đồng vị này hoàn toàn không khớp nhau: có spin bằng 0, trong khi có spin 6+, nên quá trình phân rã không xảy ra bởi tính bảo toàn mô men động lượng. Trong khi hai trạng thái kích thích của mặc dù có thể phân rã nhưng cũng không xảy ra do có spin cao. Kết quả là khi phân rã, nó phân rã beta kép thành , và là hạt nhân trải qua quá trình phân rã beta kép nhẹ nhất được biết đến.
Theo lý thuyết, có thể trải qua quá trình phân rã beta kép thành , nhưng chưa bao giờ quan sát thấy quá trình này trong thực tế. Hạt nhân của đồng vị có tính hai-lần số Magic và có thể trải qua quá trình bắt giữ electron kép thành , nhưng quá trình này cũng chưa bao giờ thấy trên thực tế. Calci là nguyên tố duy nhất có hai hạt nhân có tính hai-lần số Magic nguyên thủy. Giới hạn dưới thực nghiệm cho chu kỳ bán rã của và lần lượt là 5,9 × 10 năm và 2,8 × 10 năm.
Ngoài đồng vị "ổn định" , đồng vị phóng xạ có tuổi thọ cao nhất là . Nó phân rã bằng cách bắt electron tạo thành đồng vị ổn định với chu kỳ bán rã khoảng 10 năm. Sự tồn tại của nó trong Hệ Mặt Trời sơ khai dưới dạng một hạt nhân phóng xạ đã tuyệt chủng đã được suy ra từ : dấu vết của vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay, bởi nó là một hạt nhân phóng xạ vũ trụ, được tạo ra liên tục thông qua quá trình kích hoạt neutron của tự nhiên. Nghiên cứu tốt nhất về các quá trình này là sự phân đoạn phụ thuộc vào khối lượng của các đồng vị calci kèm theo sự kết tủa của các khoáng chất chứa calci như calcit, aragonit và apatit từ dung dịch. Các đồng vị nhẹ hơn được ưu tiên kết hợp với các khoáng chất này, từ đó làm giàu dung dịch xung quanh bằng các đồng vị nặng hơn ở mức khoảng 0,025% trên mỗi đơn vị khối lượng nguyên tử (amu) ở nhiệt độ phòng. Sự khác biệt liên quan đến khối lượng trong thành phần đồng vị calci thường được biểu thị bằng tỷ lệ của hai đồng vị (thường là /) trong một mẫu so với tỷ lệ tương đương trong chất liệu tham chiếu tiêu chuẩn. / chênh lệch khoảng 1–2‰ giữa các sinh vật trên Trái Đất.
Lịch sử
Các hợp chất calci được biết đến từ thời xa xưa, mặc dù vậy đến thế kỷ 17 mới bắt đầu làm rõ về thành phần hóa học. Vôi ở dạng vật liệu xây dựng và thạch cao tạc tượng đã được sử dụng từ thời tiền sử, từ khoảng 7000 TCN. Lò vôi được định tuổi đầu tiên có niên đại 2500 TCN và tìm thấy ở Khafajah thuộc Lưỡng Hà.
Trong cùng khoảng thời gian đó, thạch cao khô () được sử dụng để xây Kim tự tháp Giza. Chất liệu này về sau được sử dụng làm thạch cao trong lăng mộ của Tutankhamun. Calci đã được biết từ rất sớm vào thế kỷ I khi người La Mã cổ đại điều chế vôi ở dạng calci oxide bằng cách nung nóng đá vôi (). Tên gọi "calcium" bắt nguồn từ từ trong tiếng Latinh, nghĩa là "vôi".
Vitruvius – kiến trúc sư người La Mã – thấy rằng sản phẩm vôi sau khi được nung nóng nhẹ hơn đá vôi lúc ban đầu, cho rằng điều này là do việc nung nóng đã loại bỏ nước trong đá vôi. Vào năm 1755, Joseph Black đã chứng minh rằng hiện tượng này là do mất đi khí carbon dioxide, một hợp chất mà người La Mã cổ đại chưa biết đến. Mặc dù vậy, calci tinh khiết không thể được điều chế với số lượng lớn bằng phương pháp này, và một quy trình sản xuất thương mại chỉ được khám phá sau hơn một thế kỷ.
Sự phổ biến và sản xuất
nhỏ|296x296px|Ruộng bậc thang đá vôi ở [[Pamukkale, Thổ Nhĩ Kỳ.]] Calci là nguyên tố phổ biến thứ năm trên vỏ Trái Đất (chiếm khoảng 4,66% theo khối lượng), và là kim loại phổ biến thứ ba đằng sau nhôm và sắt. Nó cũng là nguyên tố phổ biến thứ tư ở những vùng cao nguyên mặt trăng. Đá trầm tích chứa calci carbonat chiếm phần lớn bề mặt Trái Đất dưới dạng tàn tích hóa thạch của sinh vật biển trong quá khứ; chúng xuất hiện dưới hai dạng: calcit hình mặt thoi (phổ biến hơn) và aragonit hình trực thoi (hình thành ở các vùng biển ôn đới hơn). Khoáng sản thuộc loại thứ nhất bao gồm đá vôi, dolomit, đá cẩm thạch, đá phấn và đá băng; các tầng aragonit tạo nên lưu vực của quần đảo Bahamas, Florida Keys và Biển Đỏ. San hô, vỏ sò, và ngọc trai chủ yếu được tạo thành từ calci carbonat. Một số khoáng chất quan trọng khác của calci bao gồm thạch cao (), anhydrit (), fluorit () và apatit (, với X là OH, Cl, hoặc F).
Các quốc gia sản xuất calci chính là Trung Quốc (khoảng 10000 đến 12000 tấn mỗi năm), Nga (khoảng 6000 đến 8000 tấn mỗi năm) và Hoa Kỳ (khoảng 2000 đến 4000 tấn mỗi năm). Canada và Pháp cũng là một trong số các nước sản xuất calci. Năm 2005, khoảng 24.000 tấn calci đã được sản xuất; khoảng một nửa lượng calci được chiết xuất trên thế giới được Hoa Kỳ sử dụng, với khoảng 80% sản lượng đầu ra được sử dụng hàng năm.
Tại Nga và Trung Quốc, phương pháp điện phân của Humphry Davy vẫn được sử dụng nhưng được dùng cho calci chloride nóng chảy. Vì calci ít phản ứng hơn stronti hoặc bari nên lớp phủ oxide-nitride tạo ra từ việc tiếp xúc với không khí ổn định; từ đó việc gia công bằng máy tiện cũng như các kỹ thuật luyện kim tiêu chuẩn khác đều có thể áp dụng với calci. Tại Hoa Kỳ và Canada, calci được sản xuất bằng cách khử vôi bằng nhôm ở nhiệt độ cao.
Chu trình địa hóa
nhỏ|Nhũ thạch trong [[hang Sửng Sốt, Việt Nam.]] Chu trình calci thể hiện liên kết giữa kiến tạo, khí hậu và chu trình carbon. Theo cách hiểu đơn giản nhất, quá trình hình thành núi khiến các loại đá chứa calci như bazan và granodiorit bị phong hóa hóa học, từ đó giải phóng ion vào nước bề mặt. Những ion này được vận chuyển tới đại dương nơi nó hấp thụ tạo thành đá vôi (). Lượng đá vôi này lắng xuống đáy biển và kết hơp thành những viên đá mới. hòa tan, ion carbonat và bicarbonat được gọi là "carbon vô cơ hòa tan".
Trên thực tế, phản ứng phức tạp hơn và liên quan đến sự hình thành ion bicarbonat () khi tác dụng với nước ở độ pH của biển:
Ở độ pH của nước biển, phần lớn khí ngay lập tức được chuyển hóa thành . Phản ứng này dẫn đến sự vận chuyển ròng một phân tử từ đại dương/khí quyển vào thạch quyển. Kết quả là mỗi ion được giải phóng bởi quá trình phong hóa hóa học sẽ loại bỏ một phân tử khỏi bề mặt (khí quyển, đại dương, đất và sinh vật sống), lưu trữ nó trong đá carbonat trong hàng trăm triệu năm. Do đó, quá trình phong hóa calci từ đá sẽ giải phóng từ đại dương và khí quyển, từ đó gây ảnh hưởng lâu dài đến khí hậu.
Ứng dụng
Ứng dụng phổ biến nhất của calci kim loại nằm trong việc sản xuất thép, do tính ái lực cao của nó đối với oxy và lưu huỳnh. Các oxide và sulfide của nó, sau khi được hình thành, sẽ tạo ra các tạp chất aluminat vôi và sunfide lỏng trong thép và nổi lên. Trong quá trình xử lý, các tạp chất này được thu nhỏ và phân tán khắp bề mặt của thép, từ đó cải thiện khả năng đúc, độ sạch và các tính chất cơ học nói chung của thép. Calci cũng được sử dụng trong ắc quy ô tô không cần bảo trì, trong đó việc thay hợp kim antimon-chì thường dùng bằng hợp kim 0,1% calci-chì sẽ làm giảm tỉ lệ mất nước và khả năng tự xả điện của ắc quy.
Do nguy cơ giãn nở và nứt, nhôm đôi khi sẽ được kết hợp với những hợp kim này. Hợp kim calci-chì cũng được sử dụng để thay thế hợp kim chì-antimon. Calci cũng được sử dụng để gia cố hợp kim nhôm dùng trong ổ trục, kiểm soát than chì trong gang và để loại bỏ tạp chất bismuth khỏi chì. Calci kim loại được phát hiện trong một số loại chất thông cống, nơi nó đóng vai là chất tỏa nhiệt và calci hydroxide giúp xà phòng hóa chất béo và hóa lỏng các protein trong tóc gây ra tắc cống. rằng các khoáng chất calci nhẹ hơn về mặt đồng vị so với các dung dịch mà các khoáng chất kết là cơ sở cho các ứng dụng tương tự trong y học và cổ đại dương học. Ở loài động vật có bộ xương được khoáng hóa bằng calci, thành phần đồng vị calci của các mô mềm phản ánh tốc độ hình thành và hòa tan tương đối của khoáng chất trong xương.
Ở người, thành phần đồng vị calci thay đổi trong nước tiểu đã được chứng minh là có liên quan đến sự thay đổi cân bằng khoáng chất của xương. Tốc độ tạo xương lớn hơn tốc độ hủy xương dẫn đến tăng tỷ lệ / ở mô mềm và ngược lại. Do mối liên quan này, việc đo đồng vị calci trong nước tiểu hoặc máu có thể hữu ích trong việc phát hiện sớm các bệnh về chuyển hóa xương như loãng xương.
Một hệ thống tương tự tồn tại trong nước biển, trong đó tỉ lệ / có xu hướng tăng lên khi tốc độ loại bỏ ion qua việc kết tủa khoáng chất lớn hơn lượng calci mới đưa vào đại dương. Năm 1997, Skulan và DePaolo đưa ra bằng chứng đầu tiên về sự thay đổi của / trong nước biển theo thời gian địa chất, cùng với lời giải thích mang tính lý thuyết về những thay đổi này. Nhiều bài báo gần đây đã khẳng định quan sát này, chứng minh rằng nồng độ trong nước biển không cố định và đại dương không bao giờ ở "trạng thái ổn định" đối với lượng calci đầu vào và đầu ra. Điều này có ý nghĩa quan trọng về khí hậu, vì chu trình calci ở biển gắn liền với chu trình carbon.
Nhiều hợp chất calci được sử dụng trong dược phẩm, y học và trong những lĩnh vực khác. Calci và phosphor được bổ sung trong thực phẩm thông qua việc thêm calci lactat, calci diphosphat và tricalci phosphat. Tricalci phosphat cũng được sử dụng làm chất đánh bóng trong kem đánh răng và thuốc trung hòa acid. Calci lactobionat là một loại bột màu trắng được sử dụng làm chất tạo hỗn dịch cho dược phẩm. Trong nấu nướng, calci phosphat được sử dụng làm chất tạo men. Trong công nghiệp giấy và khủ trùng, calci carbonat dạng kết tủa đóng vai trò là chất làm trắng giấy, calci sulfit được sử dụng làm chát tẩy trắng trong sản xuất giấy và là chất khử trùng, còn calci hypochlorit được sử dụng để khử trùng hồ bơi và nước uống. Calci silicat được sử dụng để gia cố cao su và calci acetat là thành phần của nhựa thông vôi và được sử dụng để sản xuất xà phòng kim loại và nhựa tổng hợp.
Calci nằm trong Danh sách thuốc thiết yếu của Tổ chức Y tế Thế giới.
Calci trong thực phẩm
nhỏ|Phô mai là một trong những thực phẩm giàu calci.|179x179px Một số thực phẩm giàu calci bao gồm sữa và các sản phẩm từ sữa như phô mai và sữa chua, rau có màu xanh thẫm, sản phẩm từ đậu như đậu hũ, cá có thể ăn được cả xương và ngũ cốc ăn liền tăng cường calci.
Do những lo ngại về tác dụng phụ khi tiêu thụ quá nhiều calci, bao gồm vôi hóa động mạch và sỏi thận, các tổ chức chính phủ như Cơ quan An toàn thực phẩm Châu Âu (EFSA) và phi chính phủ như Viện Y học Hoa Kỳ (IoM) đã đặt giới hạn tiêu thụ tối đa (UL). Tại Việt Nam, theo khuyến nghị của Bộ Y tế và Viện Dinh dưỡng, lượng calci tiêu thụ mỗi ngày cho những người ở độ tuổi 0–5 tháng không nên vượt quá 1000 mg/ngày: đối với những người ở độ tuổi 6–11 tháng thì không vượt quá 1500 mg/ngày; đối với những người ở độ tuổi 1–7 tuổi thì không vượt quá 2500 mg/ngày; đối với những người ở độ tuổi 8–19 tuổi thì không vượt quá 3000 mg/ngày; đối với những người từ 20–49 tuổi thì không vượt quá 2500 mg/ngày; đối với lứa tuổi từ 50 trở lên thì không vượt quá 2000 mg/ngày. Cơ quan An toàn thực phẩm Châu Âu (EFSA) đề xuất giới hạn tiêu thụ tối đa cho tất cả người lớn là 2500 mg/ngày, nhưng không đặt giới hạn tiêu thụ tối đa cho trẻ em và trẻ vị thành niên do không có đủ thông tin về tác dụng phụ của calci đối với nhóm tuổi này.
]]
Chức năng
Calci là nguyên tố thiết yếu cho sự sống và là một chất khoáng đa lượng. Ion đóng vai trò là một chất điện giải và rất quan trọng đối với sức khỏe của hệ cơ, tuần hoàn và tiêu hóa; nó không thể thiếu trong quá trình tạo xương ở dạng hydroxyapatit; và nó hỗ trợ việc tổng hợp và hoạt động của các tế bào máu. Ví dụ, nó điều chỉnh sự co cơ, dẫn truyền thần kinh và đông máu. Chính vì vậy, mức calci trong động vật có vú cần phải được kiểm soát chặt. Calci có thể làm vậy bởi vì ion tạo thành phức chất ổn định với nhiều hợp chất hữu cơ, đặc biệt là với protein; nó cũng tạo ra những hợp chất với độ hoà tan đa dạng, cho phép sự hình thành xương. Cơ thể cần Vitamin D để hấp thụ calci và duy trì hệ xương và răng
Tạo liên kết
Ion calci có thể tạp phức protein thông qua các cơ chế sau:
Cơ chế 1: Liên kết với các nhóm carboxyl trong acid glutamic hoặc acid aspartic
Cơ chế 2: Tương tác với serine, tyrosine hoặc threonine phosphoryl hóa;
Cơ chế 3: Tạo phức chelat với gốc amino acid γ-carboxyl hóa.
Trypsin, một loại enzyme tiêu hóa, tạo phức với ion calci bằng cơ chế 1; osteocalcin, một loại protein xương, thì ion calci tạo phức theo cơ chế 3.
Một số chất nền protein của xương khác như osteopontin và sialoprotein của xương sử dụng cả cơ chế 1 và cơ chế 2. Có nhiều enzyme được hoạt hóa bằng cách liên kết với calci; một số enzyme khác được hoạt hóa bằng cách liên kết không cộng hóa trị (noncovalent bonding) với các enzyme liên kết trực tiếp với calci. Calci cũng liên kết với lớp phospholipid của màng tế bào, neo các protein liên kết với bề mặt tế bào.
Độ hòa tan
Monocalci phosphat tan rất tốt trong nước, 85% lượng calci ngoại bào là ở dạng dicalci phosphat với độ hòa tan 2,00 mM, còn hydroxyapatit của xương trong chất nền hữu cơ là tricalci phosphat có độ hòa tan là 1000 μM.
Dinh dưỡng
Calci là thành phần phổ biến trong các chế phẩm bổ sung vitamin tổng hợp, Khi nồng độ calci huyết tương giảm, các thụ thể trên bề mặt tế bào của tuyến cận giáp được kích thích, dẫn đến việc tiết hormone tuyến cận giáp; PTH tiến hành kích thích sự xâm nhập của calci vào nguồn huyết tương bằng cách lấy nó từ các tế bào thận, ruột và xương nhất định, với hoạt động tạo xương của hormone tuyến cận giáp bị đối kháng bởi calcitonin, khi sự bài tiết calcitonin tăng lên cùng với nồng độ calci trong huyết tương.
Nồng độ huyết thanh bất thường
Hấp thụ quá nhiều calci có thể gây tăng calci máu. Tuy nhiên, do ruột hấp thu calci kém hiệu quả nên calci huyết thanh cao có nhiều khả năng là do cơ thể tiết ra quá nhiều hormone tuyến cận giáp (PTH) hoặc do hấp thụ quá nhiều vitamin D, cả hai đều tạo điều kiện cho việc hấp thụ calci. Những tình trạng này làm muối calci dư thừa tích tụ trong tim, mạch máu hoặc thận. Tăng calci máu gây nên chán ăn, buồn nôn, nôn, giảm trí nhớ, lú lẫn, nhược cơ, đa niệu, mất nước và bệnh chuyển hóa xương.
Tăng calci máu mạn tính thường dẫn đến vôi hóa mô mềm, gây nên các biến chứng. Thật vậy, vôi hóa có thể làm mất tính đàn hồi của thành mạch và làm gián đoạn lưu lượng máu, từ đó làm vỡ mảng xơ vữa bám trên thành mạch và gây huyết khối. Ngược lại, không hấp thụ đủ calci hoặc vitamin D có thể dẫn đến hạ calci máu, thường do bài tiết không đủ hormone tuyến cận giáp hoặc khiếm khuyết về thụ thể PTH trong tế bào. Các triệu chứng hạ calci máu gồm kích thích thần kinh cơ, có khả năng gây ra cơn tetany và rối loạn dẫn truyền điện thế hoạt động của tim.
Bệnh về xương
Vì calci cần thiết cho sự phát triển của xương nên nhiều bệnh về xương có thể bắt nguồn từ chất nền hữu cơ hoặc hydroxyapatit trong cấu trúc phân tử hoặc tổ chức của xương. Loãng xương là sự sụt giảm thành phần khoáng của xương tính theo từng đơn vị thể tích, và có thể được điều trị bằng cách bổ sung calci, vitamin D và bisphosphonat. Thiếu calci, vitamin D hoặc phosphat có thể dẫn đến bệnh nhuyễn xương.
An toàn
Calci kim loại
Vì calci kim loại phản ứng tỏa nhiệt với nước và acid, nên khi tiếp xúc với độ ẩm từ cơ thể sẽ gây ra kích ứng nghiêm trọng.Khi nuốt phải, calci có tác động tương tự đối với miệng, thực quản và dạ dày, đồng thời có thể gây tử vong Tuy nhiên, tác dụng phụ từ việc tiếp xúc lâu dài chưa được biết đến.