✨Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa

Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa

Binh chủng Nhảy Dù Quân lực Việt Nam Cộng hòa là lực lượng tác chiến đổ bộ đường không của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khởi đầu là các đơn vị nhảy dù được quân đội Liên hiệp Pháp huấn luyện, sau phục vụ cho Quân đội Quốc gia Việt Nam, từ khi thành lập đến khi tan rã đơn vị nhảy dù phát triển quân số đến quy mô cấp sư đoàn với tên gọi chính thức: Sư đoàn Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa - (hay tên gọi tiếng Anh: Vietnamese Airborne Division, VNAD) và trở thành đơn vị Tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là binh chủng có tính cơ động cao nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì được hỗ trợ không vận từ máy bay vận tải DHC-4 và C-130 của Không lực Việt Nam Cộng hòa với khả năng đổ bộ trên mọi vùng chiến sự thuộc toàn bộ lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Khác với Thủy quân lục chiến được yếm trợ hỏa lực tối đa hay Biệt động quân được hỗ trợ quân vận liên tục, binh chủng Nhảy dù thiên về kỹ thuật chiến đấu cá nhân với khả năng dùng không vận bay qua chốt phòng ngự, cũng như chuyên được sử dụng để đụng độ với các đơn vị bộ binh của Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ Tư lệnh sư đoàn đặt tại trại Hoàng Hoa Thám ngay cạnh Sân bay Tân Sơn Nhất. Bài ca chính thức: Sư đoàn Nhảy dù hành khúc. Thánh tổ: Tổng lãnh thiên thần Michael *Đặc điểm nhận dạng: quân phục rằn ri với phù hiệu Sư đoàn Nhảy dù bên tay áo trái, nón beret (bê-rê, mũ nồi) màu đỏ có gắn phù hiệu Dù.

Lịch sử hình thành

Một [[áp phích tổng động viên thời Quốc gia Việt Nam.]]

Những đơn vị tiền thân

Mặc dù nhanh chóng tái kiểm soát được phần lớn Đông Dương, người Pháp vẫn vấp phải cuộc kháng chiến quyết liệt của những người bản xứ theo chủ nghĩa dân tộc dưới sự lãnh đạo của Việt Minh. Trước viễn cảnh cuộc chiến lâu dài với Việt Minh, các chỉ huy của lực lượng viễn chinh Pháp đã quyết định thành lập những đơn vị chiến đấu người bản xứ nhằm tăng cường và bổ sung thêm binh lực. Ngày 1 tháng 1 năm 1948, đơn vị nhảy dù đầu tiên gồm phần lớn là người Việt là Đại đội 1 Nhảy dù Dông Dương [1ere Compagnie Indochinoise Parachutiste - CIP] được thành lập, Đại đội trưởng người Pháp là Đại úy Grillet-Paysan. Liền sau đó là các Đại đội Nhảy dù Đông Dương 2, 3, 5 và Đại đội Nhảy dù Lê Dương (Compagnie Indochinoise Parachutiste Légion Etrangère) được thành lập. Mỗi một Đại đội Nhảy dù được biệt phái làm Đại đội thứ 4 cho mỗi các Tiểu đoàn 1, 2, 3 và 5 Biệt kích Nhảy dù Thuộc địa Pháp (BCCP - Bataillon Colonial de Commandos Parachutistes) và Tiểu đoàn 1 Nhảy dù Lê dương ''(1er BEP).

Phần lớn chỉ huy các đơn vị Nhảy dù này đều là người Pháp, kể cả ở cấp Trung đội. Chỉ duy nhất có Đại đội 3 Nhảy dù Đông Dương (3ème CIP), tiền thân là Đại đội Nhảy dù Bắc Kỳ (Compagnie Tonkinoise Parachutiste) thành lập tháng 5 năm 1948 do Đại úy Nguyễn Văn Vỹ chỉ huy (vì vậy đơn vị này còn được gọi là Compagnie Vỹ). Thậm chí, chỉ có mỗi Thiếu úy Đoàn Văn Quảng là sĩ quan Trung đội trưởng người Việt duy nhất trong Đại đội này.

Năm 1949, Đại đội Nhảy dù Liên đoàn Phòng vệ Nam Việt "Escadron Parachutiste Garde du Việt Nam Sud-EPGVNS" được thành lập tại Thủ Đức, là một đơn vị biệt lập xuất nguồn từ "Liên đoàn Phòng vệ Cộng hòa Nam Việt" (Garde Répubiique de Cochinchine). Đại úy Richard (người Pháp) làm chỉ huy Đại đội, và đến tháng 6 năm 1951 Trung úy Nguyễn Khánh từ Trung đoàn Ngự lâm quân chuyển về làm Đại đội Phó.

Sau khi quy chế về Quân đội Quốc gia Việt Nam được hình thành, ngày 1 tháng 8 năm 1951, Tiểu đoàn 1 Nhảy dù Việt Nam được thành lập tại Chí Hòa, Sài Gòn, xây dựng từ Đại đội 1 Nhảy dù Đông Dương và Đại đội Nhảy dù Phòng vệ Nam Việt. Tiểu đoàn có 2 Trung tâm Huấn luyện tại Căn cứ Tân Sơn Nhất, Sài Gòn và tại Phi trường Bạch Mai, Hà Nội. Lần lượt tiếp theo sau đó các Tiểu đoàn Nhảy dù số 3, 4, 5, 7 và 6 được thành lập trong thời gian 1952-1954, trở thành những Tiểu đoàn Nhảy dù thuộc biên chế Quân đội Quốc gia Việt Nam, dù trên thực tế chiến đấu dưới sự điều động của quân đội Liên hiệp Pháp.

Đệ nhất Cộng hòa

Ngày 29/9/1954 Pháp bàn giao quân đội lại cho chính phủ Việt Nam. Trong các trận đánh với quân đối phương, tiểu đoàn 4,7 bị thiệt hại nặng và giải tán để lấy quân số bổ sung cho Bộ chỉ huy và đội yểm trợ. Liên đoàn Nhảy dù được thành lập từ 4 Tiểu đoàn 1, 3, 5 và 6. Chỉ huy trưởng Liên đoàn là Thiếu tá Đỗ Cao Trí. Liên đoàn có khoảng 4.000 người gồm Bộ chỉ huy, các Tiểu đoàn 1, 3, 5, 6 và Tiểu đoàn Trợ chiến (Gồm các Đại đội Quân y, Công Binh, Kỹ thuật và Súng cối, một Phân đội Truyền tin và một Trung đội Tiếp tế thả dù). Đến giữa năm 1955 toàn bộ Liên đoàn đã đóng quân tại Sài Gòn, Trung tâm Huấn luyện Nhảy Dù cũng được thành lập tại căn cứ Tân Sơn Nhất.

Ngày 1/9/1956 Trung tá Nguyễn Chánh Thi thay thế Đại tá Đỗ Cao Trí nhận chức vụ Chỉ huy trưởng. Năm 1959 Liên đoàn đổi tên thành Lữ đoàn Nhảy dù. Ngày 12/11/1960 Trung tá Cao Văn Viên được cử giữ chức vụ Chỉ huy trưởng Lữ đoàn, thay thế Đại tá Nguyễn Chánh Thi tham gia đảo chính bất thành.

Năm 1961 Tiểu đoàn 7 và Tiểu đoàn 8 Nhảy dù được thành lập. Năm 1962 Liên đoàn Nhảy dù tổ chức thành 2 Chiến đoàn Nhẩy Dù. Thiếu tá Dư Quốc Đống là Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 1 gồm các Tiểu đoàn 1, 3 và 8, đóng tại Căn cứ Hoàng Hoa Thám. Thiếu tá Đỗ Kế Giai là Chiến đoàn trưởng Chiến đoàn 2 gồm các Tiểu đoàn 5, 6 và 7, đóng tại Tam Hiệp, Biên Hòa.

Đệ nhị Cộng hòa

Năm 1964 Đại tá Cao Văn Viên được đặc cách thăng Thiếu tướng ngay tại mặt trận sau chiến thắng Hồng Ngự, bổ nhiệm về Bộ Tổng Tham mưu, Trung tá Dư Quốc Đống lên giữ chức vụ Tư lệnh Lữ đoàn Nhảy Dù.

Giữa năm 1965 Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 9 Nhảy Dù và Tiểu đoàn Pháo binh được thành lập. Đơn vị Quân y được nâng cấp thành Tiểu đoàn Quân y.

Ngày 1/12/1965 Lữ đoàn Nhảy Dù tổ chức nâng cấp thành Sư đoàn. (Bộ Tư lệnh Sư đoàn được đặt tại trại Hoàng Hoa Thám, Tân Bình, Gia Định). Các Chiến đoàn 1 và 2 đổi tên thành Lữ đoàn, do Trung tá Hồ Trung Hậu (Lữ đoàn 1) và Trung tá Đào Văn Hùng chỉ huy (Lữ đoàn 2). Lữ đoàn 3 Nhẩy Dù được thành lập, Trung tá Nguyễn Khoa Nam là Lữ đoàn trưởng.

Lính dù Hoàng Ngọc Giao (Tiểu đoàn 5) chuẩn bị thực hiện một phi vụ nhảy toán

Tiểu đoàn 11 Nhảy dù được thành lập năm 1967. Tiểu đoàn Yểm trợ KBC 4759 (Tiền thân là Tiểu đoàn Trợ chiến) được thành lập ngày 1/11/1968, có 6 Đại đội là: Đại đội Chỉ huy và Công vụ, Đại đội kỹ thuật, Đại đội Tài chính, Đại đội Vận tải, Đại đội Tiếp liệu, Đại đội Bảo trì và 4 Phân đội Tiếp vận Hành quân, yểm trợ với 4 Lữ đoàn tác chiến. Đồn trú trong Căn cứ Hoàng Hoa Thám. Tiểu đoàn trưởng đầu tiên là Thiếu tá Tống Hồ Hàm. Tiểu đoàn trưởng cuối cùng là Thiếu tá Võ Văn Thu.

Năm 1968, Sư đoàn Nhảy dù đã hoàn chỉnh với 3 Lữ đoàn gồm 9 Tiểu đoàn tác chiến, 3 Đại đội Trinh sát và 3 Tiểu đoàn Pháo binh. Dù bị thiệt hại khá nặng qua các chiến dịch trong Tet Offensive, đơn vị vẫn kịp thời được bổ sung và giữ vững đội hình.

Đầu năm 1974, thành lập Lữ đoàn 4 với các Tiểu đoàn trực thuộc tân lập gồm: 3 Tiểu đoàn 12, 14 và 15. Đồng thời thành lập thêm 3 Tiểu đoàn biệt lập trực thuộc Bộ Tư lệnh Sư đoàn: Tiểu đoàn 16, 17 và 18.

Nhảy dù là một đơn vị đặc biệt, Tổng trừ bị của QLVNCH

Sư đoàn Nhảy dù là một đơn vị tinh nhuệ và thiện chiến của Quân lực Việt Nam Việt Nam Cộng hòa, đặt dưới quyền điều động trực tiếp của Bộ Tổng Tham mưu. Quân nhân trong Sư đoàn từ binh sĩ đến sĩ quan đều là thành phần tình nguyện sau khi mãn khóa quân trường, tuy nhiên vẫn phải qua một quá trình tuyển chọn rất kỹ lưỡng mới được gia nhập vào binh chủng. Đặc biệt đa phần lực lượng là con em Công giáo, trong số đó cũng có khá nhiều người miền bắc di cư năm 1954. Được huấn luyện nhẩy dù và ôn tập tác chiến rất chu đáo, trang bị vũ khí tối tân.

Những trận chiến và biến cố lớn

Từ khi thành lập đến khi hoàn thiện, Sư đoàn Nhảy dù liên tiếp đối đầu với những đơn vị mạnh của đối phương. Sư đoàn tham gia chiến tranh cục bộ, những trận chiến Mậu Thân, Việt Nam hóa chiến tranh với những thương vong cực lớn và cũng được chính đối phương đánh giá cao.

Năm 1971, Sư đoàn Nhảy dù đã tham gia Chiến dịch Lam Sơn 719. Dù có Không quân Mỹ yểm trợ, Sư đoàn vẫn mắc bẫy đối phương và bị Sư đoàn 320 (F320A) Quân đội Nhân dân VN tiêu diệt mất Lữ đoàn 3, bắt sống Lữ đoàn trưởng Nguyễn Văn Thọ. Quân Nhảy dù bị đánh thiệt hại rất nặng trong chiến dịch này.

Năm 1972, sau Mùa hè đỏ lửa Chuẩn tướng Lê Quang Lưỡng giữ chức vụ Sư đoàn trưởng. Đầu năm 1974 Lữ đoàn 4 Nhảy dù được thành lập, Trung tá Lê Minh Ngọc là Lữ đoàn trưởng. Ngày 20 tháng 4 năm 1975, Lữ đoàn phó là Trung tá Nguyễn Đình Ngọc lên thay và chỉ huy Lữ đoàn 4 phòng thủ Sài Gòn.

Năm 1974, Lữ đoàn 1 và 2 Nhảy dù đã cùng với Sư đoàn 3 Bộ binh tiến hành tái chiếm lại Thượng Đức, một tiền đồn quan trọng của Việt Nam Cộng hòa đã bị Sư đoàn 304 Quân đội Nhân dân VN đánh chiếm trước đó. Tái chiếm lần thứ nhất vào ngày 19-9-1974. Tái chiếm lần thứ hai vào ngày 11-11-1974. Đến cuối năm, đơn vị Nhảy dù thất bại và rút ra ngoài gần hết quân, chỉ để lại 2 Tiểu đoàn cầm cự lẻ tẻ.

Năm 1975, Ban Mê Thuột thất thủ, Sư đoàn 23 Bộ binh bị đánh tan ở Nông trại Phước An và sân bay Hòa Bình, phía đông Ban Mê Thuột. Lữ đoàn 3 Nhảy dù đã được điều từ Vùng 1 Chiến thuật vào giữ đèo Phụng Hoàng ngăn đối phương phát triển xuống đồng bằng, đơn vị này kháng cự được một thời gian ngắn và bị tan rã, chỉ có một số kịp di tản xuống phía nam.

Cùng với việc Lữ đoàn 3 Nhảy dù được gửi đến đèo Phụng Hoàng, Lữ đoàn 1 và 2 Nhảy dù được điều về miền đông phòng thủ trước cửa ngõ Sài Gòn. Các đơn vị này đã tham gia trận đánh lớn cuối cùng bên cạnh Sư đoàn 18 Bộ binh và Liên đoàn 81 Biệt cách dù tại Xuân Lộc, đánh trả Quân đoàn 4 gồm các Sư đoàn 341, 6 và 7 của Quân đội Nhân dân VN.

Phần còn lại của lực lượng Nhảy dù đã về Sài Gòn khi Xuân Lộc thất thủ. Họ đã chiến đấu với Sư đoàn 325 và không cản được lữ đoàn xe tăng 203 của Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến về Dinh Độc Lập. Khi Tổng thống Dương Văn Minh ra lệnh đầu hàng, các lực lượng lính dù còn lại đã tan rã.

Đơn vị trực thuộc


Chỉ huy Sư đoàn, Lữ đoàn, Tiểu đoàn tháng 4/1975

Chỉ huy Lữ đoàn và Đơn vị Yểm trợ qua các thời kỳ

Tướng lãnh xuất thân từ binh chủng

Tư lệnh Binh chủng qua các thời kỳ

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Binh chủng Nhảy Dù Quân lực Việt Nam Cộng hòa** là lực lượng tác chiến đổ bộ đường không của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Khởi đầu là các đơn vị nhảy dù được
**Quân lực Việt Nam Cộng hòa** (_Viết tắt_: **QLVNCH**; , _viết tắt_ **RVNAF**) là lực lượng quân đội của Việt Nam Cộng hòa, thành lập vào năm 1955 và giải thể vào năm 1975 cùng
**Binh chủng Thiết giáp Kỵ binh Việt Nam Cộng hòa** (1955-1975) (, **VNACC**) - còn gọi là **Thiết Kỵ** - trực thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa, là lực lượng xung kích tác chiến
**Liên đoàn 81 Biệt cách Nhảy dù** (tiếng Anh: _81st Airborne Commando Battalion_, **81st ACB**) - thường được gọi tắt là **Biệt cách Dù** (**BCND** / **BCD**) - là một binh chủng đặc biệt, đồng
Bản đồ 4 Quân khu [[Việt Nam Cộng hòa]] **Quân đoàn I** là một đơn vị cấp Quân đoàn, được tổ chức hỗn hợp gồm cả Hải quân - Lục quân - Không quân. Đây
**Lịch sử quân sự của Việt Nam Cộng hòa** là lịch sử của các lực lượng vũ trang Việt Nam Cộng hòa, bắt đầu từ khi chế độ chính trị này thành lập vào năm
**Sư đoàn 5 Bộ binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực quân trực thuộc Quân đoàn III và Quân khu 3 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đây là một đơn vị
nhỏ|**Phù hiệu Binh chủng Pháo binh - Quân lực Việt Nam Cộng Hòa** **Binh chủng Pháo Binh** (tiếng Anh: _Artillery Republic of Vietnam Armed Forces_, **ARVNAF**) là lực lượng hỏa lực trọng yếu của Quân
**Lục quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam_, **ARVN**) hay **Bộ binh** là lực lượng quân chủ lực chiến đấu trên bộ của Việt Nam Cộng hòa. Lực lượng
**Sư đoàn Thủy quân Lục chiến Việt Nam Cộng hòa** (tiếng Anh: _Republic of Vietnam Marine Division_, **RVNMD**) là Lực lượng tác chiến đổ bộ đường thủy. Đây là một trong số những đơn vị
**Sư đoàn 1 Bộ Binh**, là một trong 3 đơn vị chủ lực thuộc Quân đoàn I và Quân khu 1 của Quân Lực Việt Nam Cộng hòa, được thành lập năm 1955 và tan
**Cuộc đảo chính tại Nam Việt Nam năm 1963** là cuộc đảo chính nhằm lật đổ chính thể Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam của Tổng thống Ngô Đình Diệm và Đảng Cần lao Nhân
*Dưới đây là danh sách huy hiệu Quân lực Việt Nam Cộng hòa: ## Chức trách và cơ quan cấp cao Tập tin:Flag of the President of the Republic of Vietnam as Supreme
**Biệt động quân Việt Nam Cộng hòa** (Tiếng Anh: _Vietnamese Rangers Corp_, **VNRC**) là đơn vị bộ binh cơ động của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, đồng thời là lực lượng tổng trừ bị
Dưới đây là danh sách các biểu trưng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. ## Ngày truyền thống *1 tháng 10 năm 1949: Ngày thành lập Quân chủng Bộ binh *1 tháng 6 năm
**Lực lượng đặc biệt** (Tiếng Anh: _Army of the Republic of Vietnam Special Forces_, **ARVNSF**) - viết tắt: **LLDB** - là một đơn vị quân sự tinh nhuệ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
**Đệ Nhất Cộng hòa** (1955–1963), còn được gọi là **Chính quyền Ngô Đình Diệm**, là chính thể của Việt Nam Cộng hòa được thành lập sau cuộc Trưng cầu dân ý năm 1955 ở miền
phải|Trái phiếu Cải cách Điền địa cấp năm 1970 **Cải cách điền địa** là tên gọi chung cho 2 đợt phân phối lại ruộng đất trong khuôn khổ chương trình **Cải cách nông nghiệp** và
**Đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1960** là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng hòa, do Đại tá Nguyễn Chánh Thi và Trung tá Vương Văn Đông đứng
**Cuộc đảo chính Nam Việt Nam năm 1964** là một cuộc đảo chính xảy ra vào ngày 30 tháng 1 năm 1964 do tướng Nguyễn Khánh lãnh đạo đã loại bỏ vai trò lãnh đạo
**Quân cảnh** (1959 - 1975) là một Binh chủng trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Binh chủng này được thành lập để thừa hành và thực thi quân
Dưới đây là danh các Hiệu kỳ Quân lực Việt Nam Cộng hòa, hầu hết được sử dụng từ năm 1955 đến năm 1975.
Các cựu quân nhân miền Nam Việt Nam chào cờ trong
**Binh biến tại Việt Nam Cộng hòa tháng 9 năm 1964** là một cuộc binh biến do một số sĩ quan cao cấp của Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện trong 2 ngày
thumb|Đạo diễn Ken Burns nói về bộ phim **The Vietnam War** hay **Chiến tranh Việt Nam** là một bộ phim tài liệu truyền hình của Mỹ do Geoffrey C. Ward viết kịch bản và Ken
**Phan Nhật Nam** tên thật là **Phan Ngọc Khuê** (9 tháng 9 năm 1943 – ?) là nhà văn Việt Nam, cựu Đại Úy Binh chủng Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa. ## Lịch sử
Vụ **tấn công trụ sở Bộ Tổng tham mưu**, cơ quan đầu não của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH), xảy ra vào rạng sáng ngày 31 tháng 1 năm 1968. Trụ sở Bộ
**Hồ Văn Kỳ Thoại** (1933 - 2022), nguyên là một tướng lĩnh Hải Quân của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, Hải hàm Phó Đề đốc, cấp bậc Chuẩn tướng. Ông xuất thân từ những
**Việt Nam Quốc Dân Đảng** (**VNQDĐ**; chữ Hán: ), gọi tắt là **Việt Quốc**, là một đảng chính trị dân tộc và xã hội chủ nghĩa dân chủ chủ trương tìm kiếm độc lập khỏi
right|thumb|upright=1.2|Lính nhảy dù Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 tuần tra vào tháng 3 năm 1966 **Hoa Kỳ can thiệp quân sự tại Việt Nam** trong giai đoạn 1948–1975 là quá trình diễn biến của
phải|[[Ngô Đình Diệm tự phong làm tổng thống Việt Nam Cộng hòa mới thành lập sau cuộc trưng cầu dân ý đầy rẫy gian lận.]] **Cuộc trưng cầu dân ý Quốc gia Việt Nam năm
**Học tập cải tạo tại Việt Nam** là tên gọi hình thức giam giữ mà chính quyền Việt Nam thực hiện đối với một bộ phận các nhân vật mà các chính phủ sở tại
**Vụ tấn công hóa học tại Huế** diễn ra vào ngày 3 tháng 6 năm 1963, khi binh sĩ lục quân Việt Nam Cộng hòa dùng lựu đạn hơi cay ném vào các Phật tử
thumb|phải|220x220px|SP4 Ruediger Richter ([[Columbus, Georgia), Tiểu đoàn 4, Trung đoàn Bộ binh 503, Lữ đoàn nhảy dù chiến đấu 173 đưa mắt mệt mỏi vì trận đánh đang nhìn lên bầu trời trong khi Trung
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Lực lượng đổ bộ đường không** (còn gọi là **Binh chủng Nhảy dù**) là một trong 8 binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không - Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
nhỏ|326x326px|Trụ sở của [[Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh.]] **Truyền hình ở Việt Nam** bắt đầu xuất hiện từ giữa những năm 1960 tại Sài Gòn (thuộc Việt Nam Cộng hòa trước đây),
**Nguyễn Khoa Nam** (23 tháng 9 năm 1927 – 1 tháng 5 năm 1975) nguyên là một tướng lĩnh gốc Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Thiếu tướng. Ông xuất
Danh sách này không tính đến các vụ máy bay chiến đấu theo các chủng loại tiêm kích, cường kích, ném bom, vận tải của lực lượng không quân của các bên tham chiến bị
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Dư Quốc Đống** (1932 - 2008) nguyên là một tướng lĩnh Nhảy dù của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ trường Võ bị Liên quân do Quốc
thumb|Biểu ngữ tuyên truyền nhân quyền tại Việt Nam **Nhân quyền tại Việt Nam** là tổng thể các mối quan hệ xã hội liên quan đến việc thực thi quyền con người tại Việt Nam
**Lịch sử Quân đội nhân dân Việt Nam** là quá trình hình thành, phát triển của lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam. Nhà nước Việt Nam xem đây là đội quân từ nhân
**Lịch sử của Giáo hội Công giáo Việt Nam từ năm 1975 đến năm 1990** có nhiều điểm đặc thù riêng. Đây là giai đoạn 15 năm thứ hai kể từ khi thiết lập hàng
Sau khi Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập năm 1930, xung đột đảng phái bắt đầu xuất hiện. Điển hình là tranh cãi và bút chiến giữa Đảng Cộng sản, Việt Nam Quốc
**Điện ảnh Việt Nam** hay **phim điện ảnh Việt Nam** (tức **phim lẻ Việt Nam**) là tên gọi ngành công nghiệp sản xuất phim của Việt Nam từ 1923 đến nay. Điện ảnh Việt Nam
**Lữ đoàn Liên binh Phòng vệ Tổng thống Phủ** (tiếng Anh: _Presidential Guards Unit_, **PGU**) là một đơn vị vũ trang chuyên trách bảo vệ các nguyên thủ Việt Nam Cộng hòa và khu vực
Biểu trưng và khẩu hiệu của ngành Du lịch Việt Nam giai đoạn 2012-2015 do Tổng cục Du lịch Việt Nam đưa ra. [[Vịnh Hạ Long]] nhỏ|Du khách thăm [[Đền Ngọc Sơn và cầu Thê
**Lực lượng biệt kích Hoa Kỳ và đồng minh trong Chiến tranh Việt Nam** nói về những đơn vị quân sự đặc biệt trong Chiến tranh Việt Nam hoạt động dưới sự điều hành trực
**Binh chủng radar** là một trong 7 binh chủng của Quân chủng Phòng không-Không quân (Nhảy dù, radar, tiêm kích, cường kích-bom, vận tải, trinh sát, tên lửa phòng không và pháo phòng không) thuộc