✨Binh chủng Radar, Quân đội nhân dân Việt Nam

Binh chủng Radar, Quân đội nhân dân Việt Nam

Binh chủng radar là một trong 7 binh chủng của Quân chủng Phòng không-Không quân (Nhảy dù, radar, tiêm kích, cường kích-bom, vận tải, trinh sát, tên lửa phòng không và pháo phòng không) thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam. Đơn vị này có nhiệm vụ dò tìm các mục tiêu xâm phạm vùng trời, vùng biển - hải đảo và vùng lãnh thổ Việt Nam để kịp thời thông báo cho các lực lượng phòng vệ như biên phòng, không quân và hải quân ngăn chặn đúng lúc, bảo vệ lãnh thổ Việt Nam. Ngoài ra, binh chủng radar còn có nhiệm vụ dẫn đường cho một số loại tên lửa phòng không tiêu diệt mục tiêu bay.

  • Ngày thành lập: 23 tháng 3 năm 1967, thành lập binh chủng.
  • Ngày truyền thống: 1 tháng 3 năm 1959, đơn vị radar đầu tiên phát sóng.
  • Lễ kỷ niệm: 21 tháng 3 năm 1958, ngày thành lập Trung đoàn đối không cần vụ 260, Trung đoàn radar cảnh giới đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Lịch sử

Ngày 21 tháng 3 năm 1958, Trung đoàn radar cảnh giới đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam được thành lập với tên gọi Trung đoàn đối không cần vụ 260

Cũng trong năm 1958, nhiều cán bộ của quân chủng phòng không-không quân của Việt Nam được đưa sang Liên Xô nhằm đào tạo về cách sử dụng radar cảnh giới, radar trinh sát và radar dẫn đường tên lửa SAM. Họ được huấn luyện tại các thành phố Leningrad, Kiev, Odessa, Minsk...

Sau một năm huấn luyện, Trung đoàn đối không cần vụ 260 trở về nước năm 1959 và bắt đầu phát sóng ngay vào ngày 1 tháng 3. Ngày này được chọn là ngày truyền thống của binh chủng.

Loại radar đầu tiên của Trung đoàn 260 là loại Radar P-8 (tên mã định danh NATO là Knife Rest A) có tổng trọng lượng trạm là 17 tấn, sử dụng băng sóng dài VHF, công suất bức xạ phát sóng là 70-75 kW, độ nhạy của máy thu là 7mV, độ phân giải theo tầm xa là 2,5 km, theo góc phương vị là 24 độ. Toàn bộ tổ hợp của đài radar P-8 được bố trí trên hai xe vận tải quân sự Zil-157. P-8 là đài radar cảnh giới phòng không 2 tham số hiện đại vào thời điểm đó, có tầm phát hiện mục tiêu lên đến 150 km, độ cao phát hiện lên đến 10 km, tốc độ quay radar 2 vòng/phút.

Ngày 29 tháng 4 năm 1966, thành lập Trung đoàn radar 293, thuộc sư đoàn phòng không 361. Ngày 23 tháng 3 năm 1967, thành lập các Binh chủng Radar, Quân chủng Phòng không-Không quân.

Trong Chiến tranh Việt Nam, Binh chủng radar của Việt Nam được trang bị khá hiện đại, các loại khí tài có nguồn gốc từ Liên Xô. Hệ thống radar cảnh giới và dẫn đường cho không quân kết hợp với hệ thống tên lửa phòng không và không quân tiêm kích. Tuy bị hơn hẳn về kinh nghiệm và chiến thuật, nhưng binh chủng radar nói riêng và các đơn vị phòng không -không quân đã chiến đấu khá sáng tạo, vô hiệu hóa được các thủ thuật chiến tranh điện tử và chống trả quyết liệt với Không quân và Hải quân Hoa Kỳ. Có khả năng vô hiệu hóa chiến thuật SEAD của phi công Mỹ dùng tên lửa chống radar AGM-45 Shrike để tiêu diệt các radar cảnh giới dẫn đường, vô hiệu hóa chiến thuật sử dụng máy phá sóng ALQ-71 nhằm ngăn chặn radar dẫn đường cho tên lửa SAM-2 của phi công Mỹ.

Hệ thống radar của binh chủng đã được phân bố dọc bờ biển miền bắc và một số vị trí binh trạm phía bắc dọc theo tuyến đường Trường Sơn, được ngụy trang kĩ lưỡng và hoạt động thường xuyên 24/24, phủ sóng gần như toàn bộ miền Bắc lúc bấy giờ.

Cũng giống như các lực lượng khác, binh chủng radar cũng đang tham gia vào kế hoạch hiện đại hóa ví dụ như được trang bị 4 hệ thống Kolchuga đời mới mua của Ukraina. Hiện nay, các Trung đoàn radar cảnh giới trên không được biên chế vào các sư đoàn phòng không, phối hợp tác chiến cùng lực lượng phòng không-không quân, còn các đơn vị radar cảnh giới bờ biển thì phối hợp với binh chủng tên lửa-pháo bờ biển.

Thành tích

Ngoài những thành tích như vô hiệu hóa chiến thuật SEAD và chiến thuật vô hiệu hóa SAM-2, Binh chủng radar còn đóng vai trò quan trọng trong việc dẫn đường cho không quân tấn công các mục tiêu bay và cả tàu chiến của Mỹ, điển hình vào 15h30 ngày 19 tháng 4 năm 1972, 2 phi công Lê Xuân Dị và Nguyễn Văn Bảy đã thành công trong việc sử dụng máy bay MiG-17 tấn công 2 tuần dương hạm USS Higbee và USS Oklahoma City (CLG-5) của Hải quân Hoa Kỳ có sự giúp đỡ đặc biệt quan trọng của lực lượng radar. Ngoài ra, binh chủng radar còn có công lao lớn trong việc bảo vệ miền bắc suốt 12 ngày đêm cuối năm 1972 trong Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không.. Còn rất nhiều chiến công khác của bộ đội radar trong suốt chiến tranh Việt Nam.

Đào tạo

Các sĩ quan, hạ sĩ quan radar được đào tạo tại Trường sĩ quan chỉ huy kỹ thuật tên lửa - radar thuộc Học viện Phòng không - Không quân.

Các loại khí tài radar hiện trong biên chế

Radar cảnh giới

Tập tin:P12.jpg|Radar **P-12** Tập tin:P-14 radar in Technical museum Togliatti.jpg|Radar **P-14** Tập tin:P-15 Flat FaceA.jpg|Radar **P-15A** Tập tin:P-18 radar on Ural-4320 & Ural-375D trucks.jpg|Radar **P-18** Tập tin:P-19 radar system.jpg|Radar **P-19** Tập tin:P37 Bar Lock.jpg|Radar **P-35** Tập tin:P37 Bar Lock.jpg|Radar **P-37** Tập tin:PRV-16 01.JPG|Radar **PRV-16** Tập tin:55Zh6M Nebo-M mobile multiband radar system -02.jpg|Radar **Nebo-UE** Tập tin:Kolchuga-passive-sensor maks2009.jpg|Radar **Kolchuga** Tập tin:39N6E Kasta-2E2 radar - 100th Anniversary VVS-R -01.jpg|Radar **Kasta 2E2**
  • Radar cảnh giới P-12 Yenisei (mã định danh NATO: Spoon Rest): Radar P-12 là loại radar tự hành, sóng mét, dùng để phát hiện, nhận biết và chỉ thị mục tiêu cho tên lửa, pháo phòng không, bổ trợ dẫn đường cho máy bay. Các bộ phận chính gồm an-ten, xe an-ten, xe đài, máy hỏi NRZ-12 và nguồn điện. Vùng phát hiện của radar theo phương vị 360o, theo góc tà từ 1,5o đến 300, cự ly phát hiện mục tiêu có diện tích phản xạ hiệu dụng 1m2 ở độ cao 500m đạt 45 km, và đạt 200 km với mục tiêu ở độ cao hơn 10 km. Radar P-12 có 4 dải tần làm việc để chống nhiễu tích cực và chống nhiễu tiêu cực. Thời gian mở máy 6 phút, triển khai và thu hồi 90 phút, tốc độ quay an-ten từ 0,5 đến 6 vòng/phút.
  • Radar cảnh giới P-14 Oborona-14 (mã định danh GRAU: 5N84A, mã định danh NATO: Tall King C): Là loại radar cảnh giới, làm việc trên dải sóng mét, có cự ly phát hiện xa với tầm hoạt động 600 km, tốc độ quét 2-6 vòng/phút, độ cao tìm kiếm cực đại 46 km và 65 km với phiên bản nâng cấp. Giới hạn "đường chân trời" (tầm quét tối đa) là 400 km.
  • Radar cảnh giới P-15 Tropa (mã định danh GRAU: 1RL13, mã định danh NATO: Flat Face A): Là loại radar giám sát,bắt mục tiêu và cung cấp thông tin cho hệ thống tên lửa, hoạt động trên tần số cực cao (UHF) ở định dạng 2D, tầm quét 150 km.P-15 là một radar có tính cơ động cơ và với anten được đặt trực tiếp trên một xe tải Zil-157 được sử dụng để vận chuyển và hệ thống có thể được triển khai trong thời gian chưa đến 10 phút.Radar có thể nhanh chóng dịch tần số của mình lên một trong bốn tần số ấn định trước để tránh nhiễu chủ động, nhiễu thụ động bị loại bỏ bởi một bộ lọc doppler liên kết.
  • radar bắt mục tiêu và cảnh báo P-18 Terek (mã định danh GRAU: 1RL131, mã định danh NATO: Spoon Rest D): Đây là loại radar làm việc trên dải sóng mét, có tầm hoạt động tối đa 170 km, có thể theo dõi cùng lúc 120 mục tiêu. Hiện Quân đội nhân dân Việt Nam bố trí các loại radar này trên một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa.
  • radar cảnh giới kiêm giám sát mục tiêu P-19 Danube (mã định danh GRAU: 1RL134, mã định danh NATO: Flat Face B): radar có khả năng phát hiện số lượng lớn các mục tiêu tầm thấp. Trang bị trong các đại đội radar tầm thấp, trung đội radar độc lập thuộc quân chủng Phòng không. Đài trinh sát và chỉ thị mục tiêu tầm thấp trong tổ hợp tên lửa phòng không S-125.Hoạt động trên tần số UHF,có tầm quét 260 km và có thể quay 360 độ.
  • radar cảnh giới kiêm dẫn đường P-35 Saturn (mã định danh NATO: Bar Lock): Loại radar này được trang bị hệ thống xử lý sơ cấp và hệ thống xử lý thứ cấp (bắt và bám) tích hợp với đài điều khiển từ xa, trang bị máy tính mới hiện đại cùng màn hình màu độ phân giải cao, trang bị hệ thống nhận diện địch - ta.
  • radar cảnh giới nhìn vòng P-37: là radar cảnh giới nhìn vòng, cung cấp thông tin cho các sở chỉ huy phòng không-không quân và các đài điều khiển sân bay.radar P-37 cảnh giới kiêm dẫn đường. Loại radar này được trang bị hệ thống xử lý sơ cấp và hệ thống xử lý thứ cấp (bắt và bám). Phiên bản nâng cấp áp dụng công nghệ tiên tiến thiết kế mới các bộ chuyển mạch, mạch trộn tần, mạch tự động bám tần số, tích hợp với đài điều khiển từ xa, trang bị máy tính mới hiện đại cùng màn hình màu độ phân giải cao, trang bị hệ thống nhận diện địch - ta.
  • radar đo độ cao PRV-16: Có nhiệm vụ cảnh giới kiêm dẫn đường, có nhiệm vụ trinh sát, phát hiện, bám sát các mục tiêu trên không, nhằm quản lý vùng trời, kịp thời phát hiện địch trên không và thông báo cho các đơn vị hỏa lực phòng không, dẫn đường cho máy bay chiến đấu bảo vệ bầu trời. Các loại ra này ít chịu ảnh hưởng nhiễu và hoạt động tốt trong nhiều điều kiện thời tiết.
  • radar RSP-10/RSP-10M: radar giám sát máy bay và kiểm soát không lưu. Đặt tại các sân bay quân sự.
  • radar 36D6 thuộc loại radar giám sát không phận được thiết kế để sử dụng như một phần của hệ thống phòng không tích hợp. Đài làm nhiệm vụ phát hiện các mục tiêu có diện tích phản hồi radar (RCS) nhỏ bay ở độ cao thấp và rất thấp trong môi trường nhiễu chủ động và nhiễu bị động mạnh. Đặc biệt, đài 36D6 là một thành phần quan trọng của hệ thống hỗ trợ điều khiển trong hệ thống phòng không tích hợp S-300PMU1/2, nơi nó hoạt động với vai trò là hệ thống trinh sát và nhắm mục tiêu cho tên lửa S-300PMU1/2.
  • radar Kasta-2E2 là loại radar nhìn vòng 3 tham số chuyên thực hiện nhiệm vụ phát hiện các mục tiêu bay thấp như tên lửa hành trình, máy bay không người lái. Phạm vi trinh sát tối đa 150 km, radar này có khả năng phát hiện mục tiêu bay ở độ cao dưới 100m từ khoảng cách tới 55 km.
  • Đài 55Zh6UE Nebo-UE: Được thiết kế để phát hiện, bám sát tự động, phân biệt địch ta, nhận dạng kiểu loại, xác định và cung cấp các tham số tọa độ và đường bay của các loại mục tiêu bay gồm cả mục tiêu bay đường đạn, mục tiêu kích cỡ nhỏ và mục tiêu có hệ số phản xạ điện từ thấp cho các hệ thống khí tài chiến đấu hay màn hiện sóng của trắc thủ radar.
  • radar Vostok E: Hệ thống radar cảnh giới Vostock E có thể phát hiện máy bay chiến đấu ở cự ly 350 km và bám cùng lúc không dưới 120 mục tiêu. Đặc biệt, nó cũng có khả năng bắt máy bay tàng hình ở cự ly 72 km trong môi trường bị đối phương gây nhiễu điện tử mạnh. Toàn bộ hệ thống được đặt trên khung gầm xe tải chuyên dụng MZKT 65273-020 bánh lốp nên có khả năng cơ động rất cao. Radar có thời gian triển khai và thu hồi chưa đầy 6 phút với kíp chiến đấu chỉ có hai người.
  • Hệ thống điện từ Kolchuga: Hệ thống radar hiện đại do Ukraina cung cấp có khả năng phát hiện máy bay tàng hình cùng các loại máy bay đời mới như B-2 Spirit mà không chịu ảnh hưởng của các thiết bị phá sóng hoặc tên lửa bức xạ chống radar.
  • ELM-2228ER: Hệ thống radar thụ động ELM-2288 AD STAR do Israel sản xuất có tầm trinh sát tới 430 km, là radar 3D hoạt động ở băng tần S, nó được trang bị bộ vi xử lý tín hiệu kỹ thuật số có khả năng tự động theo dõi và phân loại mục tiêu. Nó có khả năng cơ động cao, xử lý xung Doppler, tự động phát hiện mục tiêu, có khả năng phát hiện tên lửa đạn đạo, khả năng kháng nhiễu ECM, hệ thống nhận dạng bạn thù IFF, có thể hoạt động một cách độc lập hoặc một phần trong hệ thống phòng không tích hợp. ELM-2288 hiện gồm hai phiên bản: ELM-2288MR và ELM-2288ER. Phiên bản chính xác của ELM-2288 mà Quân đội nhân dân Việt Nam đang sử dụng được xác nhận là ELM-2288ER.
  • radar VERA-E: VERA-E là loại radar thụ động do Cộng hòa Séc nghiên cứu và chế tạo hoạt động trên nguyên lý không phát sóng mà chỉ thu tín hiệu của sóng điện từ trong một môi trường không gian đồng nhất. Loại radar này hoạt động tương tự hệ thống Kolchuga của Ukraina và là phiên bản cơ động, lắp đặt trên khung gầm xe dòng radar thụ động Tamara cũng của CH Séc chế tạo.
  • radar Coast Watcher 100 (CW-100):Là hệ thống radar được thiết kế cho nhiệm vụ giám sát bờ biển, phát hiện sớm từ xa các tàu thuyền lạ xâm nhập vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế. Hệ thống do Tập đoàn Thales (Pháp) sản xuất.Coast Watcher 100 Để vượt "giới hạn đường chân trời", sử dụng sóng truyền bề mặt dựa vào sóng đất với bước sóng khoảng 10m cho phép sóng radar truyền đi theo đường cong của trái đất. Hệ thống anten của Coast Watcher 100 thiết kế hoàn toàn từ sợi carbon nên có độ bền rất cao. Nó có thể cung cấp khả năng giám sát bờ biển 24 giờ/ngày liên tục trong 365 ngày mà không cần bảo trì.

Các loại radar bám sát mục tiêu và dẫn đường cho tên lửa

Hệ thống S-75 Volga (SAM-2)

  • P-12 "Spoon Rest", đài radar cảnh báo sớm dải sóng VHF, tầm hoạt động .
  • SNR-75 "Fan Song" Radar xử lý thông tin, bám mục tiêu và điều khiển tên lửa.
  • P-15 "Flat Face C" radar cảnh giới và bắt mục tiêu, chống mục tiêu bay thấp băng C, công suất 380 kW, tầm hoạt động 250 km/155 dặm.
  • PRV-11 "Side Net": Hệ thống đo độ cao mục tiêu.

    Hệ thống S-125 Pechora 2M (SAM-3)

  • P-15 "Flat Face"/P-15M(2) "Squate Eye"- radar cảnh giới và bắt mục tiêu/phiên bản cải tiến chống mục tiêu bay thấp băng C, công suất 380 kW, tầm hoạt động 250 km/155 dặm.
  • SNR-125 "Low Blow" - radar bám mục tiêu, điều khiển tên lửa băng I/D, công suất 250 kW
  • PRV-11 "Side Net" - đài radar đo độ cao băng E, tầm hoạt động 28 km/17 dặm, độ cao đo được lên tới 32 km/105,000 ft.

    Hệ thống 2K12 Kub (SAM-6)

  • 1S91 "Straight Flush": Radar theo dõi mục tiêu và dẫn đường tên lửa có tầm hoạt động 75 km.
  • P-12 "Spoon Rest", đài radar cảnh báo sớm dải sóng VHF, tầm hoạt động .
  • P-15 "Flat Face A", đài radar cảnh báo sớm dải sóng UHF, tầm hoạt động .
  • P-19 Flat Face B, radar phát hiện số lượng lớn các mục tiêu tầm thấp hoạt động trên tần số UHF,có tầm quét 260 km và quay 360 độ
  • P-40 "Long Track", đài radar cảnh báo sớm băng E, tầm hoạt động .
  • "Thin Skin" hay "Side Net", đài radar đo cao băng E, tầm hoạt động 240 km/148 dặm
  • "Score Board" radar phân biệt địch ta.

Hệ thống S-300PMU1 (SAM-20)

  • Radar dẫn đường tên lửa 30N6E
  • Radar 96L6E giám sát mọi độ cao.
  • Radar 36D6 điều khiển trong hệ thống tên lửa

Radar thuộc tổ hợp tên lửa

S-75 SAM-2

Tập tin:P-12 radar VS.jpg|Radar **P-12 Spoon Rest** Tập tin:Sadyba31 DSC0712.JPG|Radar **SNR-75 Fan Song** Tập tin:PRV-11 "Side Net" radar.jpg|Radar **PRV-11 Side Net S-75** Tập tin:03-Mobile radar Danuta-LMW.jpg|Radar **P-15 Flat Face C** **S-125 SAM-3** Tập tin:Lowblow.jpg|Radar **SNR-125 Low Blow** Tập tin:03-Mobile radar Danuta-LMW.jpg|Radar **P-15 Flat Face** Tập tin:PRV-11 01.JPG|Radar **PRV-11 Side Net S-125** Tập tin:P-15 Flat FaceA.jpg|Radar **P-15M(2) Squat Eye** Tập tin:P-19 radar system.jpg|Radar **P-19 Danube** **2K12 Kub SAM-6** Tập tin:1S91 radar.jpg|Radar **1S91 Straight Flush** Tập tin:Longtrack.jpg|Radar **P-40 Long Track** Tập tin:P-15 Flat FaceA.jpg|Radar **P-15A** **S-300PMU1 SAM-20** Tập tin:30N6E2 MAKS 2009 -01.jpg|Radar **30N6E** Tập tin:96L6E at the MAKS-2011 (01).jpg|Radar **96L6** Tập tin:ST-68U radar.jpg|Radar **36D6**
👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Binh chủng radar** là một trong 7 binh chủng của Quân chủng Phòng không-Không quân (Nhảy dù, radar, tiêm kích, cường kích-bom, vận tải, trinh sát, tên lửa phòng không và pháo phòng không) thuộc
Các chuyên gia quân sự Liên Xô huấn luyện tên lửa và các học viên Việt Nam tại một căn cứ ở miền Bắc Việt Nam. Tháng 5 năm 1965. **Binh chủng Tên lửa phòng
nhỏ|Các binh sĩ của [[Quân đội nhân dân Việt Nam đang duyệt binh trong bộ quân phục mới.]] **Hiện đại hóa** trong Quân đội nhân dân Việt Nam là một trong những mục tiêu theo
**Quân chủng Phòng không – Không quân** là một trong ba quân chủng của Quân đội nhân dân Việt Nam trực thuộc Bộ Quốc phòng, Quân chủng có nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ không
**Tổ chức của Quân đội nhân dân Việt Nam** được quy định theo Luật Quốc phòng năm 2018 theo đó Quân đội nhân dân Việt Nam là một bộ phận và là lực lượng nòng
**Lực lượng Không quân Cường kích** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân - Quân đội nhân dân Việt Nam, có chức năng sử dụng các máy bay cường kích nhằm thực
**Binh chủng Đặc công** là binh chủng chiến đấu đặc biệt tinh nhuệ của Quân đội nhân dân Việt Nam, do Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam trực tiếp quản lý
Huy hiệu của Không quân Nhân dân Việt Nam **Lực lượng Không quân Vận tải** là một binh chủng thuộc Quân chủng Phòng không-Không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam có chức năng lập
thumb|Quân hiệu Quân đội nhân dân Việt Nam|200x200px**Phù hiệu Quân đội nhân dân Việt Nam** bao gồm: Nền phù hiệu, hình phù hiệu, cành tùng; biểu tượng quân chủng, binh chủng; biển tên; lô gô
**Không quân nhân dân Việt Nam** (**KQNDVN**), được gọi đơn giản là **Không quân Việt Nam** (**KQVN**) hay **Không quân Nhân dân**, là một bộ phận của Quân chủng Phòng không – Không quân, trực
**Cục Kỹ thuật Binh chủng ** trực thuộc Tổng cục Kỹ thuật**,** Bộ Quốc phòng Việt Nam, thành lập ngày 10 tháng 12 năm 1999 là cơ quan đầu ngành quản lý và bảo đảm
**Đoàn cố vấn quân sự Liên Xô tại Việt Nam** () là một đội hình quân sự tổng hợp của Lực lượng Vũ trang Liên Xô được đưa đến Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
**Viện phát triển khoa học và công nghệ quốc phòng** (viết tắt **AMST** theo tên tiếng Anh của đơn vị là _Academy of Military Science and Technology_) là một viện nghiên cứu khoa học đa
**Quân đội Nhân dân Triều Tiên** là lực lượng quân sự của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, gồm 5 nhánh Lục quân, Hải quân, Không quân, Tên lửa đạn đạo và Đặc
**Bộ Tư lệnh Vùng 5 Hải quân**** **trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển Nam biển Đông và vịnh
**Bộ Tư lệnh Vùng 4 Hải quân** trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ Quần đảo Trường Sa, đảo Phú Quý,
**Bộ Tư lệnh Vùng 3 Hải quân**** **trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển giữa miền Trung, từ Quảng
**Bộ Tư lệnh Vùng 1 Hải quân**** **trực thuộc Quân chủng Hải quân là Bộ Tư lệnh tác chiến hải quân độc lập quản lý và bảo vệ vùng biển từ Quảng Ninh đến Hà
**Tập đoàn Công nghiệp – Viễn thông Quân đội**, thường dược biết đến dưới tên giao dịch **Viettel** hay **Tập đoàn Viettel**, là một tập đoàn viễn thông và công nghệ Việt Nam được thành
**Chiến tranh cục bộ** là một chiến lược quân sự của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965-1968). Nội dung cơ bản của chiến lược này là tận dụng ưu thế hỏa
**Phạm Tuân** (sinh ngày 14 tháng 2 năm 1947) là phi công, phi hành gia người Việt Nam, Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông là người Việt Nam và châu Á đầu
nhỏ| Pháo đài bay **B-52** của Không lực [[Hoa Kỳ]] Máy bay **B-52** là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, tầm xa, rất nổi tiếng của Không quân Hoa Kỳ, do hãng
**Chiến cục năm 1972** là tổ hợp các hoạt động tấn công quân sự chiến lược của Quân đội nhân dân Việt Nam và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên chiến trường miền
**Quân chủng Phòng không Không quân Quân đội Nhân dân Triều Tiên** (Chosŏn'gŭl: 조선인민군 항공 및 반항공군; Hanja: 朝鮮人民軍 航空 및 反航空軍; _Chosŏn inmin'gun hangkong mit banhangkonggun_) là nhánh quân chủng phòng không-không quân của
**Thiếu tướng Nguyễn Đức Côn** (sinh 1945 - mất 18 tháng 4 năm 2024). Nguyên quán: thôn Doãn, xã Tiên Ngoại, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Là một Tướng lĩnh QĐND Việt Nam.
**Tình hình Miền Bắc Việt Nam giai đoạn 1954-1959** là một phần của Chiến tranh Việt Nam, (Xem Hiệp định Genève). Đây là thời kỳ miền Bắc phục hồi các vết thương chiến tranh, xây
**Mặt trận đất đối không miền Bắc Việt Nam năm 1972** chứa đựng nhiều diễn biến hoạt động quân sự quan trọng của các bên trong Chiến cục năm 1972 tại Việt Nam. Đây là
nhỏ|phải|Quân đội Liên bang Nga đang diễu hành nhân ngày Chiến thắng nhỏ|phải|Quân đội nhân dân Việt Nam đang diễu hành đại lễ **Quân đội** là một tập đoàn người có tổ chức gồm những
**Mai Xuân Vĩnh** là một tướng lĩnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Phó Đô đốc của Hải quân nhân dân Việt Nam, nguyên Tư lệnh Quân chủng Hải quân, nguyên Ủy viên
**Nguyễn Văn Phiệt** (sinh năm 1938) là một sĩ quan cấp cao trong Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Trung tướng, nguyên Phó Tư lệnh Chính trị kiêm Bí thư Đảng ủy Quân chủng
## Khối các nước cộng sản Thập niên 1960 là thời kỳ nở rộ của khối Cộng sản và đã xuất hiện mầm mống chia rẽ giữa hai cường quốc hàng đầu trong khối là
**Nguyễn Văn Bảy** (2 tháng 2 năm 1936 – 22 tháng 9 năm 2019), còn gọi **Bảy A**, tên khai sinh **Nguyễn Văn Hoa**, là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, sĩ quan
**Nguyễn Ngọc Lạc** (1930 – 2017) là một Sĩ quan kỹ thuật Quân đội nhân dân Việt Nam, hàm Đại tá, nguyên Trưởng phòng Ra-đa – Tên lửa (nay thuộc Cục Kỹ thuật Binh chủng)
**Học viện Phòng không - Không quân Việt Nam** là một học viện quân sự trực thuộc Quân chủng Phòng không- Không quân- Bộ Quốc phòng Việt Nam, chuyên đào tạo sĩ quan chỉ huy
**Học viện Hải quân (HQH)** là một học viện quân sự trực thuộc quân chủng Hải quân của Bộ Quốc phòng chuyên đào tạo sĩ quan chỉ huy hải quân & cảnh sát biển cấp
**Chuyến thăm Việt Nam của Barack Obama 2016** là một chuyến đi lịch sử, đánh dấu hai thập niên bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Chiếc máy bay Air Force One
**HQ-272** thuộc **(lớp tàu TT-400TP)** là một tàu tuần tra được biên chế tại vùng II Hải quân, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là tàu chiến đầu tiên do
**HQ-275** thuộc **(lớp tàu TT-400TP)** là một tàu tuần tra được biên chế tại Lữ đoàn 172, vùng III Hải quân, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Đây là tàu chiến
**Lữ đoàn 679** là đơn vị tên lửa đất đối hải thuộc Vùng 1 Hải quân - 1 trong 5 binh chủng nòng cốt của Hải quân nhân dân Việt Nam. ## Lịch sử Trong
**Không quân Quốc gia Khmer** (tiếng Pháp: _Armée de l'Air Khmère_ – AAK; tiếng Anh: _Khmer National Air Force_ - KNAF hoặc KAF) là quân chủng không quân Quân lực Quốc gia Khmer (FANK) và
**Bộ Tham mưu** trực thuộc Quân chủng Hải quân thành lập ngày 24 tháng 1 năm 1959 là cơ quan chỉ huy, tham mưu của Quân chủng Hải quân, đặt dưới sự lãnh đạo toàn
**HQ-996** là phiên hiệu của một tàu vận tải hành khách trực thuộc vùng 4 Hải quân, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. Được thiết kế bởi Viện Kỹ thuật Hải
**Tàu 198** là một tàu vận tải quân sự thuộc đoàn tàu không số - Lữ đoàn 125, Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam. ## Xuất xưởng Tàu 198 thuộc vào
**Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc** hay **Hải quân Trung Quốc** () là lực lượng hải quân của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Quy mô tổ chức của Hải quân
**Chiến dịch CQ-88** (tên đầy đủ là **Chiến dịch Chủ quyền 1988**) là một chuỗi các hoạt động quân sự trên biển Đông do Quân chủng Hải quân Nhân dân Việt Nam tiến hành từ
thumb|Đội nghi lễ của [[Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trong lễ phục mùa hè kiểu 14 tại Lễ duyệt binh Ngày chiến thắng tại Moskva năm 2015.]] **Quân hàm Quân Giải phóng Nhân
Lavochkin **S-75 Dvina** (tiếng Nga: С-75 Двина; tên ký hiệu của NATO: **SA-2 _Guideline**_) là một tổ hợp tên lửa đất đối không (SAM) tầm cao được điều khiển bằng hệ thống ra đa ba
**Chiến dịch Linebacker II**, hay còn được biết đến là **Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không**, là chiến dịch quân sự cuối cùng của Hoa Kỳ chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hoà
**Chiến dịch Sấm Rền** (tiếng Anh: _Operation Rolling Thunder_) hay** Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất** (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay)
**Sự kiện Vịnh Bắc Bộ** (tiếng Anh: _Gulf of Tonkin incident_) là một cuộc chạm trán tầm cỡ quốc tế dẫn tới việc Hoa Kỳ tham gia trực tiếp hơn vào cuộc Chiến tranh Việt