✨Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc
Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc (Hoa phồn thể: 中國共產黨中央政治局常務委員會, Hoa giản thể: 中国共产党中央政治局常务委员会, bính âm: Zhōngguó Gòngchǎndǎng Zhōngyāng Zhèngzhìjú Chángwù Wěiyuánhuì, Hán Việt: Trung Quốc Cộng sản Đảng Trung ương Chính trị Cục Thường vụ ủy viên hội) hay còn được gọi đầy đủ là Ủy ban Thường vụ Bộ Chính trị Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, hoặc đôi khi gọi tắt cách khác là Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc do Hội nghị toàn thể Ủy ban Trung ương Đảng bầu ra. Các thành viên được gọi chung là lãnh đạo tối cao Đảng và Nhà nước của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
Chức quyền
Điều lệ Đảng Cộng sản Trung Quốc quy định khi Ủy ban Trung ương Đảng không họp, Bộ Chính trị và Ban Thường vụ Bộ Chính trị thực hiện chức năng và quyền hạn của Ủy ban Trung ương.
Ban Thường vụ Bộ Chính trị thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng, chỉ đạo toàn bộ công tác Đảng, đại diện cho Ủy ban Trung ương và Đảng trong quan hệ đối ngoại. Thành viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị phải là Ủy viên Bộ Chính trị. Thành viên Ban Thường vụ nắm tất cả các chức vụ quan trọng và có quyền lực tối cao trong bộ máy lãnh đạo của Trung Quốc. Các thành viên trong Ban Thường vụ được gọi chung là Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị.
Độ tuổi cho Ban Thường vụ Bộ Chính trị tương tự với độ tuổi của Ủy viên Bộ Chính trị không quá 68 tuổi tính từ Đại hội Đảng không có trường hợp ngoại lệ. Quy tắc này còn được biết tới là qi-shang, ba-xia (七上八下; "7 lên, 8 xuống", quy tắc này được áp dụng từ năm 2002). Và các ủy viên ứng cử phải ít nhất 50 tuổi (Ngoại lệ có trường hợp của Phó Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào, Phó Chủ tịch Đảng Vương Hồng Văn).
Các chức vụ thường xuyên trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị là Tổng Bí thư (kiêm nhiệm Chủ tịch nước từ năm 1993), Thủ tướng, Ủy viên trưởng Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc (Chủ tịch Quốc hội), Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, Bí thư thứ nhất Ban Bí thư, Bí thư Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương, Phó Thủ tướng Thứ nhất.
Các chức vụ không thường xuyên là: Phó Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Bí thư Ủy ban Chính trị Pháp luật Trung ương, Phó Chủ tịch Hội nghị Hiệp thương Chính trị Nhân dân Trung Quốc, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương...
Để trở thành Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị các cuộc đấu đá phe nhóm đã xảy ra, điển hình là vụ án Bạc Hy Lai.
Xếp hạng trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị được xếp theo chức vụ và quyền lực thực tế nắm giữ. Không giống Bộ Chính trị xếp theo tên.
Trong lịch sử tồn tại, chưa từng xuất hiện một nữ chính trị gia nào xuất hiện trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Hệ thống các nước Cộng sản nói chung đều cơ bản có cơ cấu lãnh đạo gồm Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương, tại Trung Quốc, Ban Thường vụ Bộ Chính trị là cơ quan cao hơn Bộ Chính trị tuy nhiên nó hoạt động cũng tương tự Bộ Chính trị ở các nước Cộng sản khác còn cơ quan Bộ Chính trị ở Trung Quốc thì hoạt động hạn chế với tần số họp 1 tháng / 1 lần ít thường xuyên hơn Bộ Chính trị ở các quốc gia: Liên Xô, Đông Âu, Việt Nam, Cuba,... Nhìn chung đây là cơ cấu quyền lực mang "màu sắc Trung Hoa" trong mô hình chính quyền Cộng sản.
Lão Thường ủy
Các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị sau khi nghỉ hưu thường được gọi là " Lão Thường ủy", tuy đã thôi các chức vụ trong Đảng, Chính phủ, Quốc hội, Quân ủy, Chính Hiệp nhưng các lãnh đạo này vẫn có sức ảnh hưởng to lớn, vẫn tiếp cận các văn kiện cao cấp, cho ý kiến các vấn đề quan trọng. Đặc biệt họ có thể biểu quyết phân định các tranh chấp trong nội bộ lãnh đạo cao cấp đương nhiệm. Tiêu biểu là vụ phế truất Tổng Bí thư Triệu Tử Dương.
Đại hội đại biểu Toàn quốc Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ bầu ra: Ủy viên Trung ương, Ủy viên dự khuyết Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, Bí thư Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương. Tổ chức thương lượng phân định các vị trí này là Đoàn Chủ tịch Đại hội, cơ cấu Đoàn này gồm Tổng Bí thư đương nhiệm làm Chủ tịch và các Ủy viên Thường vụ gồm có các: Thường ủy đương nhiệm, Lão Thường ủy các khóa trước (còn sống), các lãnh đạo cấp Đảng và Nhà nước đã nghỉ hưu, các Ủy viên Bộ Chính trị đương nhiệm, các Ủy viên Ban Bí thư đương nhiệm.
Sau khi Tổng Bí thư Tập Cập Bình lên nắm quyền và đẩy mạnh chiến dịch chống tham nhũng, thanh trừng lão Thường ủy Chu Vĩnh Khang thì cơ chế can dự của tổ chức này lên chính quyền đương nhiệm bị suy giảm nặng nề.
Danh sách Ủy viên hiện tại
Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị hiện tại được bầu ngày 23/10/2022 do Ủy ban Trung ương Đảng khóa XX bầu.
Ủy viên Ban Thường vụ hiện tại thuộc kỳ Đại hội thứ 20 nên thường gọi là Ban Thường vụ Bộ Chính trị khóa 20.
Đại Hội Đảng lần thứ 20
Lịch sử
Lịch sử ban đầu
Ban Thường vụ Bộ Chính trị được thành lập tháng 7/1928 tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6. Từ tháng 1/1934-9/1956 đổi tên thành Ban Bí thư Trung ương. Từ sau Đại hội 8 thì đổi tên thành Ban Thường vụ Bộ Chính trị và Ban Bí thư vẫn tồn tại nhưng chỉ chịu trách nhiệm xử lý các công việc thường nhật hoặc trong tổ chức.
Cách mạng văn hóa
Trong thời gian đầu của cuộc cách mạng văn hóa, Ban Thường vụ Bộ Chính trị không hoạt động thường xuyên nữa, nhiều ủy viên chủ chốt bị loại khỏi chức vụ như Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình. Quyền lực thực sự thuộc về nhóm cách mạng văn hóa, theo danh nghĩa báo cáo với Ban Thường vụ Bộ Chính trị nhưng thực tế lại là "trung tâm quyền lực" ảnh hưởng đến mọi mặt xã hội. Tại Đại hội 9, ủng hộ triệt để Mao Trạch Đông, Trần Bá Đạt và Khang Sinh được bổ sung vào Ban Thường vụ Bộ Chính trị, và Ban Thường vụ tiếp tục hoạt động trở lại nhưng không thường xuyên. Cuối thời kỳ cách mạng văn hóa, nội bộ tranh chấp nhau. Giữa năm 1975-1976, các ủy viên Khang Sinh, Chu Ân Lai, Chu Đức, Mao Trạch Đông đều qua đời. Đặng Tiểu Bình bị thanh trừng. Trong thời gian này nó không trở thành cơ quan hoạch định chính sách hay hành pháp nữa, và chỉ họp trong trường hợp đặc biệt. Sau khi Tứ nhân bang bị bắt trong đó có Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn là 2 Ủy viên Ban Thường vụ Bộ Chính trị và chỉ còn Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm Anh vẫn đảm nhiệm. Ban Thường vụ được khôi phục lại hoàn toàn sau Đại hội 11.
Sau khi cải cách kinh tế
Sau khi trở lại quyền lực, một trong những mục tiêu của Đặng Tiểu Bình là gia tăng quyền lực của Đảng và thể chế hóa các cơ quan như Bộ Chính trị và Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Trong những năm 1980 Ban Thường vụ Bộ Chính trị trở thành cơ quan tối cao của Đảng. Ban Thường vụ được thiết lập theo cơ chế tập trung dân chủ, tức mọi quyết định phải được đồng thuận và biểu quyết theo đa số. Tuy nhiên Ban Thường vụ vẫn chịu ảnh hưởng bởi Ủy ban Cố vấn Trung ương. Đặng Tiểu Bình là người chuyển giao quyền lực giữa 2 tổ chức này và quyền lực không chính thức của ông tác động vào chính trị. Năm 1987 Đặng Tiểu Bình và các lão thần cách mạng đã thay thế Hồ Diệu Bang bằng Triệu Tử Dương. Năm 1989 Đặng Tiểu Bình và các lão thần cách mạng đã ra lệnh cho quân đội tiến hành giải tán cuộc biểu tình tại quảng trường Thiên An Môn, mặc dù Ban Thường vụ Bộ Chính trị không đồng ý. Triệu Tử Dương đã phản đối cuộc giải tán bằng quân đội, gây rạn nứt với các Ủy viên Thường vụ khác đứng đầu là Thủ tướng Lý Bằng. Kết quả, Triệu Tử Dương và Hồ Khải Lập bị truất quyền và được thay bằng Giang Trạch Dân và Lý Thụy Hoàn.
Nhiệm kỳ 1982 - 1989, Ban Thường vụ Bộ Chính trị có cư cấu rất tinh giản gọn nhẹ và khoa học, chỉ gồm 5 người tập trung vào 2 cơ quan đầu não Trung ương Đảng và Quốc vụ viện, các chức danh có quyền lực thực tế như: Tổng Bí thư, Thủ tướng, Bí thư Ban Bí thư, Bí thư Ủy ban kiểm tra kỷ luật, Phó Thủ tướng Thứ nhất. Còn các chức danh mang tính lễ nghi, đại diện cao cấp của nhà nước như: Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Chính hiệp tuy vẫn giữ ghế trong Bộ Chính trị nhưng không tham gia Ban Thường vụ., tuy vậy vẫn tham gia các cuộc họp quan trọng và chỉ đứng dưới chức Tổng Bí thư nhưng trên các Ủy viên Thường vụ khác.
Kể từ sau Hội nghị lần thứ 4 năm 1989 đây là lần cải tổ cuối cùng trong Ban Thường vụ Bộ Chính trị. Tại Đại hội 14, 7 Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị được bầu và không thay đổi cho đến đại hội 15 khi Kiều Thạch và Lưu Hoa Thanh về hưu được thay thế bằng Úy Kiện Hành và Lý Lam Thanh, cho thấy Ban Thường vụ Bộ Chính trị hoạt động ổn định. Hồ Cẩm Đào là Phó Chủ tịch nước, đâu là lần đầu tiên chức vụ Phó Chủ tịch nước là Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.
Tại Đại hội 16 của Đảng, Ban Thường vụ Bộ Chính trị mở rộng tới 9 ủy viên. Theo một số nhà quan sát cho rằng đây là sự sắp xếp cho những người trung thành với Giang Trạch Dân, vấn đề này còn được tranh cãi. Hồ Cẩm Đào trở thành Tổng Bí thư, Ban Thường vụ Bộ Chính trị có thể hiểu là "tập thể lãnh đạo" và "chủ tịch chung", trong số Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Lý Trường Xuân là ủy viên không có chức danh cụ thể được xác định (mặc dù phụ trách công tác lý luận Tư tưởng). Sự mở rộng cơ cấu này được Cựu Tổng Bí thư Giang Trạch Dân gọi là " Cửu Vị Phân Quyền", 9 người mỗi người nắm 1 mảng, tuy Tổng Bí thư lãnh đạo toàn cục nhưng quyền lực bị hạn chế rất nhiều, cơ cấu này tồn tại ổn định trong suốt khóa 16 và 17. Trong niên khóa 2002-2007 của đại hội 16 có một sự việc là Phó Thủ tướng thứ nhất Hoàng Cúc - một Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị đã từ trần năm 2006 khiến 9 ghế lãnh đạo chỉ còn 8, để lại một khoảng trống quyền lực nhất định.
Đại hội 18 Ban Thường vụ giảm xuống còn 7 ủy viên. Bí thư Ủy ban chính pháp Trung ương và Phó Chủ tịch nước không được đưa vào Ban Thường vụ. Các chức vụ Bí thư điều hành và chức vụ tuyên truyền hợp nhất và do Lưu Vân Sơn đảm nhiệm
Danh sách Ủy viên các khóa
Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 5
Hội nghị toàn thể thứ nhất (5/1927): : Trần Độc Tú, Trương Quốc Đảo, Thái Hòa Sâm
Hội nghị Cục Chính trị mở rộng khóa 5
: Hội nghị Cục Chính trị lâm thời: Trương Quốc Đảo, Lý Duy Hán, Chu Ân Lai, Lý Lập Tam, Trương Thái Lôi. : Ngày 9/8/1927 Hội nghị thứ 1 Cục Chính trị Trung ương lâm thời: Cù Thu Bạch, Lý Duy Hán, Tô Triệu Chỉnh. : Tháng 11/1927 Hội nghị Cục Chính trị mở rộng lâm thời: Cù Thu Bạch, Lý Duy Hán, Tô Triêu Chinh, Chu Ân Lai, La Diệc Nông.