✨Ẩm thực Ai Cập
nhỏ|phải|Koshary, một món ăn bình dân của người Ai Cập với mì ống ngắn, cơm, [[đậu lăng đen hoặc đỏ, đậu gà]]
Ẩm thực Ai Cập sử dụng nhiều legume, rau và trái cây vì thung lũng Nin và châu thổ sông Nin màu mỡ của Ai Cập giúp sản xuất lượng lớn những loại cây trồng này với chất lượng cao.
Bánh mì
Bánh mì được làm từ một công thức đơn giản là "xương sống" của ẩm thực Ai Cập. Nó được tiêu thụ trong gần như tất cả các bữa ăn Ai Cập; một bữa ăn của tầng lớp lao động hoặc nông thôn thường bao gồm nhiều bánh mì hơn đậu một chút.
Loại bánh mì địa phương có dạng bánh pita gluten gọi là Eish Masri hoặc Eish Baladi hoặc Baladee (tiếng Ả Rập Ai Cập: ; tiếng Ả Rập hiện đại: ʿayš) chứ không phải tiếng ả rập ḫubz. Từ "" xuất phát từ gốc Do Thái ʕ-Ī-Š có nghĩa là "sống, đang sống." Từ ʿayš có nghĩa là "cuộc sống, cách sống...; kế sinh nhai," trong tiếng Ả Rập tiêu chuẩn và cổ điển. Ở Ai Cập hiện đại, chính phủ trợ cấp bánh mì, bắt nguồn từ chính sách của Gamal Abdel Nasser. Năm 2008, một cuộc khủng hoảng thức ăn rất lớn xảy ra, thỉnh thoảng mọi người đánh nhau để giành bánh mì, dẫn đến nguy cơ bạo loạn. Những người Ai Cập bất đồng quan điểm và những quan sát viên từ bên ngoài của cựu Đảng Dân chủ Dân tộc thường xuyên chỉ trích trợ cấp bánh mì là một sự cố gắng để mua chuộc giai cấp công nhân Ai Cập để khuyến khích sự chấp nhận chính quyền, tuy nhiên, trợ cấp bánh mì vẫn tiếp tục sau cuộc cách mạng năm 2011. trái|nhỏ|Bữa sáng trên đường phố Ai Cập Bánh mì thường cung cấp cacbohydrat và protein cho bữa ăn của người Ai Cập. Người Ai Cập sử dụng bánh để xúc thức ăn, nước xốt, nước chấm và để bọc kebab, falafel, và giống như bánh mì kẹp. Hầu hết bánh pita được nướng trong nhiệt độ cao (450 °F hoặc 232 °C), làm phần bánh dẹt phồng lên rất nhiều. Khi được lấy ra khỏi lò nướng, các tầng bột nhào nướng vẫn tách biệt bên trong pita, giúp cho bánh có độ rỗng để chế biến thành các món khác nhau.
Aish Merahrah là một loại bánh mì dẹt Ai Cập làm với 5-10% bột hạt cỏ ca ri thêm với bột ngô. Nó là phần của khẩu phần ăn truyền thống của vùng quê Ai Cập, được chế biến ở các hộ gia đình. Miếng bánh dẹt và rộng và thường có đường kính khoảng 50 cm. Bột ngô được làm thành bột nhào mềm và lên men qua đêm với bột nhào chua, sau đó được tạo thành hình tròn và để cho nó phát triển 30 phút trước khi làm dẹt thành hình cái đĩa, và sau đó nó được nướng lên. Bánh mì này có thể được bảo quản vài ngày trong túi kín hơi. Việc thêm hạt cỏ ca ri vào giúp tăng lượng protein, thời gian bảo quản và khả năng tiêu hoá; mặt khác, nó khiến người ăn tiết ra mùi mồ hôi của họ, đôi khi người thành thị Ai Cập dùng nó để chế nhạo.
Món chính
Ẩm thực Ai Cập đặc trưng bởi các món như ful medames, đậu răng ngựa nghiền; kushari, một hỗn hợp đậu lăng, cơm, pasta, và các nguyên liệu khác; molokhiya, corchorus olitorius thái và nấu với xốt tỏi hoặc rau mùi; và feteer meshaltet. Ẩm thực Ai Cập có những đặc điểm chung với đồ ăn của vùng Đông Địa Trung Hải, như là rau nhồi cơm, lá nho, shawarma, kebab, ta‘miya, baba ghannoug, và baklava.
Một số người coi kushari - một hỗn hợp cơm, đậu lăng và macaroni - là món ăn quốc gia. Ful medames là một trong những món nổi tiếng nhất. Đậu răng ngựa cũng được sử dụng để làm falafel (phổ biến nhất được gọi là ta‘miya ở Ai Cập), mà bắt nguồn từ Ai Cập và lan truyền ra các vùng khác của Trung Đông.
Não bò và gan được ăn ở Ai Cập. Người Ai Cập cũng ăn óc cừu.
thumb|right|[[Kushari được phục vụ ở nhà hàng Ai Cập ở Cairo.]] thumb|right|Bánh kẹp ta‘miya của ai cập. thumb|Một lát Macaroni Béchamel của Ai Cập
Ai Cập cổ đại được biết đến với việc sử dụng rất nhiều tỏi và hành tây trong đồ ăn hàng ngày của họ. Tỏi tươi với các loại rau thơm khác được sử dụng trong salad cà chua cay và cũng được nhồi vào cà tím nướng hoặc luộc. Tỏi xào với rau mùi được thêm vào molokhiya, một món súp xanh phổ biến được làm từ lá đay thái mịn, đôi khi với gà hoặc thỏ. Hành tây chiên cũng được thêm vào kushari.
Các món khác bao gồm:
- Bamia – một món hầm với thịt cừu, đậu bắp và cà chua là các nguyên liệu cơ bản
- Beeftek (; thịt bê schnitzel; du nhập từ ẩm thực Pháp)
- Súp bissara
- Kersha (; gelatin cừu với rau).
- Besara (, ).
- trứng với basterma.
- Ferakh panée (, ; “thijt gà schnitzel”)
- Feseekh (, ; cá mugilidae muối hoặc lên men, người ta thường ăn nó trong dịp lễ hội Sham El Nessim, xảy ra vào ngày thứ Hai Phục Sinh của phương Tây).
- Feteer: Bánh làm với bột nào mỏng với lượng lớn bơ samnah. Nhân có thể mặc (e.g., pho mát, suguq) hoặc ngọt (e.g., qishta, mứt). Có một số loại nhà hàng chuyên về fitir, mặc dù kể từ đầu những năm 2000 họ cũng thường làm pizza.
- Kushari ()
- Shish taouk (); một món mới du nhập gần đây từ Levant.
- Sayyadeyah ().
- Qolqas: Rễ khoai môn, thường được gọt và chế biến với cà chua hoặc cải cầu vồng Thụy Sĩ. Qolqas chưa gọt và cà tím tạo thành món ṭabkha sawda, hay "món ăn đen".
- Fattah ().
- Bamyah,"beram bamyah" ().
- Kawarea vàMembar (, )
- Kamounia – món hầm từ thịt bò và thì là Ai Cập
- Mifataah (مفتّأه او حلاوة سوده)
Món tráng miệng
left|thumb|[[Basbousa phủ với hạt óc chó]]
Món tráng miệng của Ai Cập giống với các món tráng miệng của Trung Đông. Basbousa (), đôi khi được gọi là harissa (ở Maroc và Alexandria), là một món cay làm từ semolina và nhúng vào xi rô đường. Nó thường được phủ với hạnh nhân và theo truyền thống được cắt theo chiều dọc thành nhiều mảnh nhỏ có hình viên kim cương. Baklava () là món ngọt làm từ nhiều tầng của bột nhào filo, một sự kết hợp của các loại quả kiên, và nhúng vào xi rô ngọt. Eish el saraya Fatayer là bánh kết (bột nhào filo) nhồi với mọi thứ từ trứng đến mơ và các loại trái cây. Polvorón (, Ghūrībah) là một món phổ biến ở toàn bộ Bắc Phi. Nó là một món ngọt giống với kahk (, ) nhưng mỏng hơn nhiều. Nó giống với bánh giòn xốp phủ với hạnh nhân rang.
right|thumb|Umm Ali được chế biến trong lò
Kahk là món ngọt truyền thống phổ biến nhất trong dịp Eid al-Fitr (, ) ở Ai Cập. Nó là loại bánh quy giòn xốp phủ với đường bột, mà có thể được nhồi với chà là, hạt óc chó, hoặc agameya (, ) (giống như lokum của Thổ Nhĩ Kỳ) hoặc có thể được dùng không. Kunafa () là một món bột nhào viên hình "ngón tay" nướng và nhồi với các loại quả kiên (thường là hạt dẻ cười), thịt, kem béo hoặc đồ ngọt. Luqmet el qadi () là loại bánh donut nhỏ, tròn mà giòn ở bên ngoài và mềm và có xi rô ở bên trong. Nó có thể được dùng với bột quế hoặc đường bột. Qatayef () là món tráng miệng dành cho dịp lễ Ramadan của Hồi giáo, một loại bánh kếp ngọt có nhân pho mát hoặc quả kiên. Roz be laban (, “pudding gạo”) làm từ loại gạo trắng ngắn, sữa nguyên kem, đường và vani. Nó có thể được dùng với bột quế. Umm Ali (, ), món món ăn quốc gia của Ai Cập, giống với bánh pudding làm từ bột nhào, quả kiên, nho khô và được dùng nóng.
Các món tráng miệng khác bao gồm:
thumb|Konafa, một loại đồ tráng miệng của Ai Cập là từ bột nhào mỏng, quả kiên và xi rô
- Feteer meshaltet (, )
- Couscous kiểu Ai Cập, với bơ hoặc kem béo đặc và đường cùng với các loại quả kiên và hoa quả khô.
- Halawa (, ).
- Ladida (, ).
- Malban (, , lokum)
- Mehalabeyya (, ): một loại blancmange ngọt.
- Melabbes (, ).
Bánh
Bánh táo truyền thống được nêm với các loại gia vị khác nhau như nhục đậu khấu hoặc quế để tăng hương vị. Quả kiên nghiền cũng được thêm vào phần bột nhào, phổ biến nhất là hạnh nhân và hạt óc chó. Bánh bông lan là bánh làm từ bột (thường là bột lúa mạch), đường, và trứng, đôi khi có thêm bột nở và vani (, hoặc , từ ).
Thức uống
Trà (, ), trà là thức uống quốc gia ở Ai Cập, sau đó là cà phê Thổ Nhĩ Kỳ và Ai Cập. Trà Ai Cập thường đen và chua và thường được dùng trong cốc, đôi khi với sữa. Trà đóng gói ở Ai Cập hầu như được nhập khẩu từ Kenya và Sri Lanka. Chính phủ Ai Cập coi trà là vụ mùa chiến lược và mở nhà máy chè lướn ở Kenya. Trà Ai Cập có hai loại, Koshary và Saiidi.
Trà Koshary (, ), phổ biến ở Hạ (Bắc) Ai Cập, được chế biến bằng phương pháp truyền thống từ trà đen nhúng trong nước sôi và đợi trong vài phút. Nó luôn luôn được làm ngọt với đường mía và có hương vị bạc hà tươi. Thêm sữa vào cũng phổ biến. Trà Koshary thường có màu và hương vị nhạt.
Trà saiidi (, ) phổ biến ở Thượng (Nam) Ai Cập. Nó được chế biến bằng cách đung sôi trà đen với nước năm phútf với lửa lớn. Trà saiidi cực kỳ mạnh và tối, thường hai thìa cà phê trà một tách là điển hình. Nó được làm ngọt với lượng lớn đường mía (bắt buộc vì công thức và phương pháp này làm trà rất đắng). Trà saiidi có màu đen kể cả trong dạng lỏng.
Trà là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày và nghi lễ dân gian ở Ai Cập. Nó thường được dùng cùng bữa sáng trong hầu hết các hộ gia đình, và uống trà sau bữa trưa cũng phổ biến. Khi đến nhà người khác, bất kể là mức độ hay mục đích nào của chuyến ghé thăm, đều có một tách trà; sự hiếu khách này cũng có diễn tra ở những chuyến làm việc ở văn phòng cá nhân, phụ thuộc vào đặc điểm công việc. Một tên gọi phổ biến cho trà ở Ai Cập là "bổn phận" (trong tiếng Ả Rập là "wa-jeb" hoặc "wa-geb"), vì phục vụ trà cho khách được coi là bổn phận.
Trà xanh mới có mặt ở Ai Cập gần đây a (chỉ từ khoảng cuối những năm 1990 họ có thể chi trả cho trà xanh) và nó không quá phổ biến. Điều này trái ngược với một số phần của Maghreb và Sahara, nơi mà trà thuốc súng theo truyền thống được sử dụng để làm trà Touareg và trà dành cho nghi lễ trà Maroc.
Ngoài trà, trà thảo mộc cũng thường được dùng ở các quán trà Ai Cập. Karkadeh (; , ), một loại trà từ đài hoa dâm bụt khô đặc biệt phổ biến, như là các phần khác của Bắc Phi. Nó thường được phục vụ rất ngọt và lạnh nhưng cũng có thể được uống nóng. Thức uống này được cho là thức uống yêu thích của Pharaon. Ở Ai Cập và Sudan, trong đám cưới thường có trà dâm bụt. Trong các con phố điển hình của trung tâm Cairo, mọi người có thể thấy nhiều người bán dạo hoặc quán cà phê ngoài trời bán loại trà này. Ở Ai Cập, karkadeh được sử dụng làm một cách để giảm huyết áp máu khi được tiêu thụ với một lượng lớn. Trà sắc từ bạc hà, quế, gừng khô, và tiểu hồi cần cũng phổ biến, gọi là sahlab. Hầu hết các loại trà thảo mộc này được coi là có cả chức năng y học; đặc biệt phổ biến là loại trà sắc từ nước chanh nóng trong lá bạc hà và được làm ngọt với mật ong và dùng để trị viêm họng.
Cà phê (, , Saidi Arabic: gahwah ) được coi là thức uống để chào đón ở Ai Cập. Nó thường được chế biến trong ấm cà phê nhỏ, gọi là dalla (دلة) hoặc kanakah () ở Ai Cập. Người ta dùng có trong tách nhỏ để uống cà phê gọi là (, ; Sa'idi: fenjān ).
Ở Ai Cập, nước mía được gọi là aseer asab là là một loại đồ uống rất phổ biến được bán ở hầu hết tất cả các quầy bán nước ép, có thể thấy rất nhiều ở hầu hết các thành phố.
Trà glycyrrhiza glabra và nước ép minh quyết theo truyền thống được uống vào tháng Hồi giáo Ramadan, được gọi là qamar ad-din.
Một loại đồ uống chua, nhẹ được làm từ me phổ biến vào mùa hè được gọi là Tamr Hindi. Nghĩa đen là "chà là Ấn Độ", là thuật ngữ địa phương để nói về me.
Một loại thức uống ngọt có màu trắng gọi là sobia là đồ uống truyền thống của Ai Cập, đặc biệt được bán ở tháng linh thiêng của Ramadan, và là một loại sữa gạo có hương dừa. Nó được cho vào trai nhựa và bán ở các quầy bán dạo khắp các thành phố của Ai Cập.