✨Halloumi

Halloumi

Halloumi hoặc haloumi () (, ) là một loại phô mai nửa cứng, không ủ chín được làm từ hỗn hợp sữa dê, sữa cừu và đôi khi cả sữa bò. Món có nhiệt độ nóng chảy cao nên nên dễ dàng chiên hoặc nướng. Đặc tính này khiến món trở thành thứ thay thế thịt phổ biến. Rennet (chủ yếu là đồ chay hoặc vi sinh) được dùng để làm đông sữa trong quá trình sản xuất halloumi, mặc dù không có vi khuẩn lên men nào dùng trong quá trình pha chế.

Halloumi thường gắn liền với đảo Síp. Tại đây, một cộng đồng đa sắc tộc trong nhiều thế kỷ đã tạo nên món này. Món cũng phổ biến khắp Đông Địa Trung Hải. Món ăn trở nên quen thuộc trên khắp Thổ Nhĩ Kỳ sau năm 2000. Phô mai sữa cừu kiểu halloumi được người Síp sản xuất ở Anh dưới cái tên "Anglum" (tên gọi "halloumi" không bảo hộ).

Halloumi là tên thương mại đã đăng ký tại Hoa Kỳ (thuộc sở hữu của chính phủ Síp) và Vương quốc Anh (thuộc sở hữu của Quỹ Bảo hộ Phô mai Truyền thống của Đảo Síp Tên Halloumi). Món này cũng được bảo hộ như một chỉ dẫn địa lý trong khối EU, tựa như một Chỉ định Xuất xứ được Bảo hộ (PDO), có nghĩa là trong khối EU, chỉ những sản phẩm được sản xuất tại một số vùng nhất định của Síp mới có thể được gọi là "halloumi". Hành động bảo hộ của PDO đối với halloumi đã bị trì hoãn phần lớn do xung đột giữa các nhà sản xuất sữa và nông dân chăn nuôi cừu, dê về việc liệu món phô mai có thể chứa được (và bao nhiêu) sữa bò hay không?

Nguồn gốc từ ngữ

Tên halloumi có nguồn gốc từ , khalloúmi, bắt nguốn từ tiếng Ả Rập Maronite của Síp xallúm, cuối cùng là từ tiếng Ả Rập Ai Cập: حلوم .

Bản thân từ ngữ trong tiếng Ả Rập Ai Cập là một từ mượn của Tiếng Copt (Sahidic) và (Bohairic), được dùng làm phô mai để ăn ở Ai Cập thời trung cổ. Tên của món phô mai có thể bắt nguồn từ từ ngữ Demotic ḥlm "phô mai", được chứng thực trong các bản thảo và ostraca thời Ai Cập-La Mã thế kỷ thứ 2.

Tên theo tiếng Thổ Nhĩ Kỳ-Síp là bắt nguồn từ nguồn này, cũng như tên của món phô mai Ai Cập hiện đại khác . Một công thức để tăng chất lượng ḥalūm ('phô mai') bằng cách ngâm nước muối tìm ra trong quyển sách dạy nấu ăn của Ai Cập thế kỷ 14 كنز الفوائد في تنويع الموائد: Kanz al-Fawāʾid fī Tanwīʿ al-Mawāʾid.

Những mô tả sớm nhất còn sót lại về halloumi của người Síp được khách du lịch Italia đến Síp ghi lại vào giữa thế kỷ 16. Nơi thường được xem là nguồn gốc của món ăn.

Tổng quan và chế biến

nhỏ|Halloumi tươi, chưa nướng phải|nhỏ|Món haloumi tại khách sạn 5 sao sang trọng nhỏ|Xà lách trộn với halloumi Phô mai có màu trắng, với kết cấu nhiều lớp đặc biệt và có vị mặn. Món được trữ trong nước trái cây tự nhiên. Thường được trang trí bằng bạc hà, nguyên nhân do halloumi bảo quản tốt hơn khi được gói trong lá bạc hà; halloumi đôi khi được đóng gói với bạc hà cắt nhỏ trên bề mặt của nó.

Phô mai thường dùng trong nấu ăn và có thể chiên cho đến khi chuyển nâu mà không bị chảy do có nhiệt độ nóng chảy cao hơn bình thường. Điều này khiến món trở thành loại phô mai tuyệt vời để chiên hoặc nướng (như saganaki) hoặc chiên và ăn kèm với rau, hoặc là một thành phần trong món xà lách. Có rất nhiều công thức chế biến halloumi ngoài cách nướng đơn giản. Người Síp thích ăn halloumi với dưa hấu trong những tháng ấm áp, hay như halloumi và lountza, một sự kết hợp của phô mai halloumi với hoặc một lát thịt lợn hun khói, hoặc xúc xích thịt cừu mềm. Ở nhiều vùng, món thường được ăn vào bữa sáng, hoặc như một bữa ăn nhẹ hoặc món ăn phụ.

Khả năng chống nóng chảy là do sữa đông tươi được làm nóng trước khi đổ khuôn và ngâm trong nước muối. Halloumi truyền thống có hình bán nguyệt, kích thước bằng một chiếc ví lớn, nặng . Hàm lượng chất béo xấp xỉ 25% trọng lượng ướt, 47% trọng lượng khô với khoảng 17% protein. Kết cấu rắn chắc khi nấu chín khiến món phát ra tiếng kêu trên răng khi nhai.

Halloumi truyền thống được làm từ sữa dê và cừu chưa tiệt trùng. Nhiều người cũng thích halloum để lâu; được ủ trong nước muối, khô hơn, rắn chắc hơn và mặn hơn nhiều, khiến món rất khác so với loại halloumi dịu nhẹ hơn thường có ở phương Tây.

Thông tin dinh dưỡng

100 gram halloumi đóng gói được sản xuất thương mại thường chứa:

👁️ 1 | 🔗 | 💖 | ✨ | 🌍 | ⌚
**Halloumi** hoặc **haloumi** () (, ) là một loại phô mai nửa cứng, không ủ chín được làm từ hỗn hợp sữa dê, sữa cừu và đôi khi cả sữa bò. Món có nhiệt độ
**Síp** ( ; ), tên gọi chính thức là **Cộng hòa Síp**, là một đảo quốc nằm tại phần phía đông của biển Địa Trung Hải, đây là đảo có diện tích và dân số
**Ravioli** (; singular: _raviolo_, ) là một loại mì có nhân được bao bọc trong bột mì pasta mỏng. Thường ăn kèm trong nước dùng hoặc với nước sốt, chúng có nguồn gốc là món
Các thành phần để trộn salad khác nhau trong [[buffet tự chọn]] **Salad/Rau trộn** (tiếng Pháp: _salade_) hay **salad,** **xa lát**, **xà lách trộn** là một loại món ăn có nguồn gốc từ các nước
**Meze** (cũng được gọi là **mezze**)() chỉ các món ăn nhỏ phục vụ như là món khai vị trong các bộ phận của Trung Đông, các nước vùng Balkans, Hy Lạp, và Bắc Phi. Ở
nhỏ| _Falrehteh_, một trong những món ăn tiêu biểu nhất của [[Damascus. ]] nhỏ|_Lakhma_, còn được gọi là bánh mì "Cappadocian" nổi tiếng với cộng đồng nói tiếng Hy Lạp. nhỏ|Một bữa ăn Syria, với
**Tatar böreği** (Tatar börek) là một món ăn có nguồn gốc xuất xứ từ Thổ Nhĩ Kỳ bao gồm các gói bột thường được cắt theo hình tam giác. Nó là một loại thực phẩm
**Ẩm thực Hy Lạp** là một nền ẩm thực Địa Trung Hải. Nó có một số đặc điểm trung với ẩm thực truyền thống của Ý và Thổ Nhĩ Kỳ. Hiện nay người nấu ăn